Bệnh lao – Khám phá căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
Bệnh lao là một căn bệnh truyền nhiễm lan tràn mạnh mẽ trong cộng đồng. Để chữa khỏi hoàn toàn bệnh lao, việc phát hiện sớm và điều trị đúng phác đồ là rất quan trọng. Vậy, hãy cùng tìm hiểu nguyên nhân và dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm của bệnh lao.
Bệnh lao – Hiểu rõ căn bệnh nguy hiểm này
Bệnh lao là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn lao gây ra và đứng thứ hai trong số các bệnh tử vong do nhiễm trùng. Mỗi năm, có khoảng 10 triệu ca bệnh lao mới được ghi nhận và 1,5 triệu người tử vong trên toàn cầu.
Lao được chia thành 2 nhóm chính là lao phổi và lao ngoài phổi. Lao có thể tồn tại ở bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể, nhưng lao phổi là hình thức phổ biến nhất và là nguồn gốc chính của sự lây truyền trong cộng đồng. Bệnh lao có tỷ lệ tử vong cao nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Bất kỳ ai cũng có nguy cơ mắc bệnh này, đặc biệt là trẻ em và người lớn với hệ miễn dịch yếu.
Các loại bệnh lao
Bệnh lao tiềm ẩn
Bệnh lao tiềm ẩn là tình trạng cơ thể phản ứng với kháng nguyên vi khuẩn lao nhưng không có dấu hiệu lâm sàng hoặc cận lâm sàng cho thấy bệnh đang hoạt động. Đây là trường hợp trong đó vi khuẩn lao không hoạt động hoặc sinh trưởng trong cơ thể do sự khống chế từ hệ thống miễn dịch. Vi khuẩn lao có thể hoạt động khi sức khỏe của người suy giảm.
Bệnh lao
Bệnh lao (còn được gọi là lao hoạt động) có thể xảy ra ở bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể. Lao phổi là hình thức phổ biến nhất, chiếm 80-85% trường hợp lao. Người mắc bệnh lao thường có các dấu hiệu như ho kéo dài hơn ba tuần, ho ra máu, sốt, sụt cân, khó thở, đau ngực hoặc đau khi hít thở. Kết quả xét nghiệm thường sẽ chỉ ra sự hiện diện của vi khuẩn lao hoặc sự thay đổi mô bệnh học.
1. Lao phổi
Lao phổi, hay còn được gọi là ho lao, là một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chiếm mạng sống của hơn 1,5 triệu người mỗi năm. Lao phổi lây truyền qua đường hô hấp khi người khỏe mắc vi khuẩn lao từ các hạt nước bọt hoặc bụi vào phế nang và gây bệnh phổi. Vi khuẩn lao sau đó lan ra các cơ quan khác trong cơ thể qua máu và gây bệnh.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố vào ngày 27/10/2022, số ca mắc lao phổi đã tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2021. Đây là lần đầu tiên suốt hơn 20 năm qua, tình trạng lao phổi trên toàn cầu lại tăng trở lại. WHO cho biết trong số 10,6 triệu người được chẩn đoán mắc lao phổi vào năm trước, có 1,6 triệu người tử vong. Đại dịch COVID-19 đã đóng góp vào mức tăng đột biến của số người chết liên quan đến lao phổi (1).
Lao phổi là hình thức phổ biến nhất chiếm 85% các trường hợp lao.
2. Lao da
Bên cạnh lao phổi, vi khuẩn lao cũng có thể gây bệnh lao da. Đây là một dạng lao ngoài phổi tương đối phổ biến. Vi khuẩn lao xâm nhập vào cơ thể thông qua nhiều con đường khác nhau, gây bệnh tại các cơ quan rồi di chuyển đến da. Hiếm khi vi khuẩn lao xâm nhập và gây bệnh da trực tiếp từ bên ngoài.
Có thể coi lao da là một biến thể của các hình thức lao khác như lao hạch, lao phổi,… Các nghiên cứu đã cho thấy trong số những người mắc bệnh lao da, có khoảng 3% đến 40% người cũng bị lao hạch, 25%-30% người mắc lao da cũng mắc lao phổi.
3. Lao màng não
Lao màng não chiếm ít hơn 5% số ca mắc lao, nhưng lại có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh lao ở trẻ sơ sinh. Trẻ mắc lao màng não, nếu sống sót, có thể gặp các biến chứng nghiêm trọng như bại não, liệt chi, động kinh, mù, câm, điếc. Các trường hợp nhiễm vi khuẩn lao màng não thường được phát hiện khi bệnh trở nặng. Điều trị khi bệnh đã nặng rất khó khăn và người bệnh khó tránh khỏi nguy cơ tử vong và di chứng nghiêm trọng.
Nguyên nhân gây bệnh lao
Bệnh lao được gây ra bởi vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis, vi khuẩn lao. Vi khuẩn lao có hình dạng thanh, hơi cong, không có vỏ, không có lông và không có nha bào. Vi khuẩn lao có khả năng kháng bất lợi môi trường khô hạn, các nguyên tố hóa học, kháng cồn và axit với nồng độ có thể tiêu diệt các loại vi khuẩn khác. Các hóa chất diệt khuẩn lao cần có nồng độ cao và tiếp xúc lâu dài. Trong nhờn, vi khuẩn lao có thể tồn tại trong vòng vài tuần và trong trường hợp nhờn khô, vi khuẩn lao có thể tồn tại tới 2 tháng.
Nguyên nhân gây bệnh lao là do vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis gây ra.
Đối tượng dễ mắc bệnh lao
Bất cứ ai cũng có nguy cơ mắc bệnh lao, nhưng ở một số đối tượng, nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
-
Người có hệ miễn dịch suy giảm do nhiều nguyên nhân như HIV/AIDS, bệnh đái tháo đường, bệnh thận giai đoạn cuối, bệnh nhân ung thư đang được điều trị, người sử dụng thuốc chống ghép cơ quan, người dùng một số loại thuốc điều trị viêm khớp dạng thấp, bệnh Crohn và bệnh vảy nến, người suy dinh dưỡng, trẻ em và người cao tuổi.
-
Những người tiếp xúc với người mắc bệnh lao cũng nằm trong nhóm nguy cơ cao mắc bệnh truyền nhiễm. Người sinh ra hoặc thường xuyên di chuyển đến các nước có mức độ lao cao như Mexico, Philippines, Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc, Haiti, Guatemala và các quốc gia khác. Các nhân viên chăm sóc sức khỏe, những người sống hoặc làm việc ở những nơi có nguy cơ lây truyền cao như nhà dưỡng lão, trại giam, nơi tạm trú cho người vô gia cư.
Bệnh lao lây truyền như thế nào?
Bệnh lao lây truyền qua đường không khí từ người này sang người khác. Vi khuẩn lao lan truyền trong không khí khi người mắc bệnh lao ho trong phổi hoặc cổ họng, khi nói chuyện, hành động hoặc khi hắt hơi, khạc. Những người ở gần có thể hít phải vi khuẩn lao và nhiễm bệnh.
Khi một người hít phải vi khuẩn lao, vi khuẩn có thể bám vào phổi và bắt đầu sinh sôi. Từ đó, vi khuẩn lan qua máu và di chuyển đến các bộ phận khác trong cơ thể như thận, cột sống hoặc não.
Dấu hiệu của bệnh lao
Bệnh lao thường có các triệu chứng như sốt, sụt cân, đổ mồ hôi đêm hoặc ho kéo dài. Các triệu chứng cụ thể của bệnh lao bao gồm:
- Sốt
- Đổ mồ hôi đêm
- Ớn lạnh
- Mất nhu cầu ăn
- Ho kéo dài ba tuần hoặc lâu hơn
- Ho ra máu
- Đau ngực hoặc có đau khi hít thở hoặc ho
- Sụt cân không rõ nguyên nhân
- Mệt mỏi
Ngoài ra, bệnh lao có thể gây bệnh tại nhiều bộ phận khác trong cơ thể. Khi người mắc bệnh lao ngoài phổi, các dấu hiệu và triệu chứng sẽ khác nhau. Ví dụ, lao ở cột sống sẽ gây đau lưng, lao ở thận có thể gây ra tiểu ra máu.
Chẩn đoán và điều trị bệnh lao
Có hai loại xét nghiệm được sử dụng để phát hiện bệnh lao, bao gồm xét nghiệm lao qua máu và xét nghiệm lao qua da. Bác sĩ sẽ chỉ định loại xét nghiệm phù hợp cho từng bệnh nhân. Sự lựa chọn giữa xét nghiệm lao qua da và xét nghiệm lao qua máu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm lý do xét nghiệm, tính sẵn có của xét nghiệm và chi phí. Không nhất thiết phải thực hiện cả hai loại xét nghiệm trên một người.
Xét nghiệm lao qua máu
Có hai loại xét nghiệm lao qua máu đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt và được sử dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ, đó là:
- QuantiFERON®-TB Gold Plus (QFT-Plus)
- T-SPOT®.TB test (T-Spot)
Nếu kết quả xét nghiệm lao qua máu là dương tính, tức là bạn đã nhiễm vi khuẩn lao. Tiếp theo, cần thực hiện các xét nghiệm bổ sung khác để xác định xem bạn có nhiễm vi khuẩn lao tiềm ẩn hay bị bệnh lao hay không. Nếu kết quả là âm tính, tức là máu của bạn không phản ứng với xét nghiệm. Khả năng rằng bạn không nhiễm vi khuẩn lao.
Xét nghiệm lao qua da
Xét nghiệm lao qua da là phương pháp xác định xem bạn có nhiễm vi khuẩn lao hay không. Xét nghiệm này được thực hiện bằng cách tiêm một lượng nhỏ chất lỏng xét nghiệm được gọi là PPD vào vùng dưới cánh tay. Kết quả xét nghiệm sẽ có trong vòng 2-3 ngày. Người được xét nghiệm có thể có phản ứng dị ứng ở vị trí tiêm PPD. Nhân viên y tế sẽ đánh giá mức độ sưng và cho biết kết quả của bạn là dương tính hay âm tính.
Bệnh lao có thể được điều trị bằng thuốc. Tuy nhiên, người bệnh cần tuân thủ theo chỉ định của bác sĩ. Điều trị bệnh lao thường bao gồm việc sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau để tiêu diệt vi khuẩn lao. Việc sử dụng nhiều loại thuốc sẽ mang lại hiệu quả cao hơn trong việc tiêu diệt vi khuẩn lao và ngăn chặn sự kháng thuốc.
Các loại thuốc điều trị bệnh lao phổ biến
- Isoniazid (INH)
- Rifampin (RIF)
- Ethambutol (EMB)
- Pyrazinamide (PZA)
Sau vài tuần sử dụng thuốc, người bệnh sẽ cảm thấy khỏe hơn và có thể không lây truyền bệnh cho người khác. Bác sĩ điều trị sẽ thông báo cho người bệnh khi nào họ có thể trở lại công việc, trường học hoặc tiếp xúc với người khác.
Phải làm gì sau khi tiếp xúc với người mắc bệnh lao?
Lao là một căn bệnh truyền nhiễm có khả năng lây lan mạnh mẽ trong cộng đồng. Người mắc bệnh lao có khả năng truyền nhiễm bệnh cho những người xung quanh, như thành viên trong gia đình hoặc đồng nghiệp. Nếu bạn đã tiếp xúc với người mắc bệnh lao, hãy đi khám sớm tại bệnh viện để được kiểm tra.
Phòng ngừa bệnh lao
Để phòng ngừa bệnh lao, mọi người cần tránh tiếp xúc gần với những người mắc bệnh. Nếu công việc yêu cầu bạn phải tiếp xúc với người mắc bệnh lao, hãy đeo khẩu trang và găng tay để tự bảo vệ. Tránh đi đến những nơi đông đúc và thiếu vệ sinh.
Hãy tăng cường hệ miễn dịch bằng cách có chế độ ăn uống giàu chất dinh dưỡng, thường xuyên tập thể dục ít nhất 45 phút mỗi ngày để cải thiện tuần hoàn máu và hệ miễn dịch. Luôn giữ vệ sinh sạch sẽ và rửa tay thường xuyên bằng xà phòng.
Quan trọng nhất, hãy tiêm vắc xin phòng lao BCG ngay khi sinh ra. Vắc xin BCG có hiệu quả cao trong việc phòng ngừa các dạng lao nguy hiểm, bao gồm lao màng não. Vắc xin BCG được khuyến nghị cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, nên tiêm sớm trong vòng 1 tháng sau khi sinh. Một mũi vắc xin BCG có thể bảo vệ suốt đời, không cần tiêm lại.
Việc tiêm vắc xin phòng lao muộn có thể tăng nguy cơ mắc bệnh lao ở trẻ. Người lớn chưa mắc bệnh lao, chưa được tiêm phòng và thường xuyên tiếp xúc với yếu tố lây nhiễm cần tiêm vắc xin phòng bệnh.
Bài viết được chỉnh sửa bởi dnulib.edu.vn – Dnulib.