1. Người tối cổ xuất hiện trong khoảng thời gian nào?
Lịch sử loài người cho chúng ta biết về những sự kiện đã diễn ra trong cuộc sống của con người kể từ khi xuất hiện trên Trái đất. Khoa học, đặc biệt là khảo cổ học và sinh vật học đã tìm ra nhiều bằng chứng về quá trình phát triển lâu dài từ động vật bậc thấp lên động vật bậc cao. Đỉnh điểm của quá trình này là sự biến đổi từ vượn thành người.
Trong giai đoạn đầu hình thành loài người, có một loài khỉ cổ đại, sống cách đây khoảng 6 triệu năm, đã biết đứng và đi bằng hai chân, dùng hai tay để cầm nắm, ăn trái cây, già, lá cây và cả động vật nhỏ. Xương hóa thạch của chúng được tìm thấy ở Đông Phi, Tây Á và cả ở Việt Nam. Trong quá trình phát triển, loài vượn biến thành người cổ đại, khoảng 4 triệu năm trước. Như vậy, có thể kết luận rằng Người tối cổ đã xuất hiện khoảng 4 triệu năm trước đây, ở chặng đầu quá trình hình thành loài người.
Người cổ đại có thể đã đi gần như hoàn toàn bằng đôi chân của họ. Tay được tự do sử dụng để câu cá và tìm kiếm thức ăn. Cơ thể của chúng đã trải qua nhiều thay đổi: mặc dù trán vẫn thấp và dẹt, lông mày vẫn nổi rõ nhưng hộp sọ đã lớn hơn so với vượn cổ đại và đã hình thành trung tâm phát âm trong não. Vì vậy, mặc dù tất cả dấu vết của con vượn không bị loại bỏ khỏi cơ thể của chúng, nhưng con người cổ đại đã là con người. Đó là một bước nhảy vọt từ vượn thành người, giai đoạn đầu tiên của lịch sử loài người. Họ đã biết sử dụng các bộ phận hiện có để làm công cụ. Người xưa đã biết lấy những viên cuội hay hòn cuội lớn, để riêng cho sắc, cầm trên tay. Vì vậy, họ bắt đầu biết cách chế tạo công cụ. Công cụ thô sơ này được gọi là đồ đá cũ (cổ đại). Với những chiếc rìu như vậy, con người đã chặt cây để làm gậy hoặc sử dụng trực tiếp làm vũ khí, tự vệ hoặc tấn công động vật, để kiếm thức ăn.
Từ chỗ để giữ lửa, quanh năm lấy lửa trong tự nhiên để giữ ấm, dìm chết thú dữ, để nấu nướng, con người đã biết đập hai mảnh đá vào nhau để lấy lửa. Đó là một phát minh vĩ đại, trong đó con người có thể sử dụng năng lượng quan trọng nhất để cải thiện cuộc sống của họ.
Nhờ lao động cần cù, chế tạo công cụ và sử dụng công cụ, bàn tay con người dần trở nên khéo léo. Cơ thể cũng thay đổi theo để có tư thế làm việc thích hợp. Các giọng nói trưởng thành và phát triển hơn do nhu cầu giao tiếp với nhau. Con người biến đổi và hoàn thiện mình từng bước thông qua lao động.
Ở một số loài động vật, tình yêu tự nhiên hình thành mối quan hệ ràng buộc họ có cặp đôi, có đàn và đầu đàn. Người xưa có quan hệ xã hội: Có tù trưởng, có phân công lao động nam nữ, chăm sóc con cái. Họ sống trong các hang động, mái đá hoặc cũng có thể dựng lều bằng cành cây, da thú, sống quần tụ với nhau thành từng đàn gồm 5-7 gia đình. Mỗi gia đình có hai vợ chồng, con nhỏ chiếm một góc lều, một góc hang. Vào thời điểm đó, không có quy định xã hội, vì vậy những nhóm xã hội ban đầu này được gọi là bầy đàn nguyên thủy. Con người nguyên thủy vẫn sống trong tình trạng “ăn tóc” – một cuộc sống tự nhiên, bấp bênh và triền miên trong hàng triệu năm.
2. Đặc điểm của người tối cổ:
Do người tối cổ là sự tiến hoá từ người vượn cổ cho nên vẫn còn dấu vết của người tối cổ: phần trán thấp và ngả ra phía ngoài, mày nhô cao, xương hàm nhô ra phía ngoài, trên đầu vẫn có một lớp lông che phủ. Người tối cổ dường như đã hoàn toàn đi, đứng bằng hai chân, đôi tay hoàn toàn tự do để cầm vũ khí, tìm thức ăn. Hộp sọ đã phát triển (khoảng 900 cm3, so với người hiện đại là 1500 cm3, vượn hiện đại là 600c m3) nên người tối cổ đã biết cách chế tác những dụng cụ đá dù là đồ đá cũ. Người tối cổ có tín ngưỡng và tôn giáo. Thường họ sống theo nhóm có người đứng đầu dòng họ. Và bắt đầu hình thành nên cộng đồng người nguyên thuỷ.
So với người vượn cổ, người tối cổ nổi trội hơn ở các điểm như sau:
– Đã thoát li khỏi vượn, có khả năng đứng vững trên mặt đất.
– Đi bằng hai chân, thể tích não nhiều hơn, có thể ghè đẽo đá làm công cụ lao động.
3. Dấu tích của người tối cổ được tìm thấy ở đâu:
3.1. Trên thế giới:
Ở thời kỳ đầu của sự tiến hoá con người, loài vượn cổ tồn tại khoảng 6 triệu năm trước đây, đã biết đi đứng thẳng bằng hai chân, cầm nắm và sử dụng công cụ lao động, cũng như ăn được trái cây và một số động vật có vú nhỏ. Và khoảng 3 – 4 triệu năm, người vượn tối cổ được tiến hoá thành người vượn cổ, mất hơn 2 triệu năm lao động. Lúc này người tối cổ đã biết đứng bằng 2 chân, 2 tay biết cầm nắm, đã có thể đứng thẳng và đôi tay tự do cử động. Hộp xương của người tối cổ lớn. Bộ sọ của vượn được tìm thấy ở Đông Phi, Gia – va (Inđônêxia), Bắc Kinh (Trung Quốc). Trên thế giới, người vượn tối cổ xuất hiện cách đây khoảng 4 triệu năm đến 50 – 40 vạn năm. Sự tiến hoá của người tối cổ – từ vượn cổ trở thành người vượn cổ – đánh nhau sự phát triển nhảy vọt từ vượn trở thành loài người và là tiền đề hình thành người tinh khôn hiện tại.
3.2. Ở Việt Nam:
Trên thế giới, người tối cổ (người vượn) xuất hiện cách đây khoảng 4 triệu năm đến 50 – 40 vạn năm. Sự xuất hiện của người tối cổ – từ vượn trở thành người – đánh đấu sự tiến triển nhảy vọt từ vượn thành người. Ở Việt Nam, các nhà khảo cổ học đã tìm được nhiều dấu vết của người tối cổ phù hợp với thời kỳ đồ đá cũ. Trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (thuộc xã Tô Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn), các nhà khảo cổ học đã phát hiện thấy một số răng hoá thạch người vượn cùng với xương động vật thuộc thời kì Cánh tân. Ở hang Thấm Khuyên, người ta đã tìm thấy 9 chiếc răng hoá thạch, trong đó có: 1 răng sữa, 1 răng cửa, 3 răng hàm trên, 1 răng nanh và 3 răng hàm dưới. Ở hang Thẩm Hai cũng đã phát hiện thấy 1 chiếc răng hoá thạch và được xác định là răng sữa hàm trên.
Qua phân tích cho thấy, 10 chiếc răng kể trên đều có đặc điểm tương đồng với răng người vượn Bắc Kinh (Trung Quốc), lại còn có nét đặc trưng của người Nêanđéctan. Từ đó, chúng ta đoán định được rằng, người vượn ở Thẩm Khuyên, Thẩm Hai thuộc nhóm những cá thể Homo Erectus (Người đứng thẳng) đang trên quá trình tiến hoá, sống trong quãng thời gian cuối trung kỳ cánh đồng, cách ngày nay chừng 30 vạn năm. Ở nhiều nơi trên cả nước, các nhà khảo cổ học cũng tìm thấy nhiều dấu vết các công cụ lao động của người tối cổ. Ở di chỉ núi Đọ (Thanh Hoá), người ta đã tìm thấy hơn 2.500 công cụ bằng đá. Các công cụ đều được chế tác bằng đá gốc, tất cả đều được làm từ loại đá bazan – một loại đá cứng nhưng dẻo, có thể tách theo hướng người thợ xây định và tạo ra các miếng tước có rìu cạnh sắc.
Các mảnh đá ghè (còn gọi là mảnh tước) ở núi Đọ đều rất thô, nặng, được đoán định là công cụ dùng để cắt, cạo của người vượn ở nước ta. Bên cạnh mảnh tước là công cụ phổ biến (chiếm hơn 90% tổng số các loại hiện vật) ở núi Đọ còn tìm thấy nhiều hạch đá (là những hòn đá mà từ đó người vượn ghè ra các mảnh tước), nhiều công cụ chặt đập thô sơ thường gọi là trốp-pơ (là những hòn đá được ghè đẽo qua loa, có một phần lưỡi dày và cong) cùng với các công cụ nạo bằng đá được ghè đẽo qua loa và có lưỡi sắc, nhọn, được sửa ở rìa cạnh…Các nhà khảo cổ học cho rằng: “Địa điểm núi Đọ vừa là nơi cư trú, vừa là nơi chế tác công cụ. Đây là một di chỉ xưởng thông thường như nhiều địa điểm khảo cổ học khác thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá cũ trên thế giới”.
Ngoài di chỉ núi Đọ , ở núi Quan Yên (cách núi Đọ 3.000m) và núi Nuông (Thanh Hóa), Tấn Mài Ninh),….các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều công cụ thuộc sơ kỳ thời đại đá cũ của người tối cổ.
Mặc dù gần đây, có một số nhà khoa học dự báo niên đại của núi Đọ và những di chỉ đồng thời có thể trễ hơn. Tuy nhiên, họ cũng không phủ nhận rằng: “Núi Đọ, núi Nuông, Quan Yên chính là các dấu tích vật chất thuộc thời kì nguyên thuỷ ở nước ta”. Mặt khác, nhiều dấu tích của thời kỳ đá cũ cũng được khai quật ở khu vực miền Đông Nam Bộ. Đó là các di chỉ: Hàng Gòn VI, Dầu Giây, Suối Đá, Núi Đất, Núi Cẩm Tiên, Cầu Sắt (thuộc tỉnh Đồng Nai) và An Lộc (thuộc huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước). Riêng tại di chỉ Hàng Gôn VI, nhà địa chất học người Pháp E. Saurin đã phát hiện được 15 công cụ bằng đá, trong đó có 3 rìu tay thuộc loại Asen điển hình. Các nhà nghiên cứu cho rằng, về mặt hình thái và kỹ thuật, nhiều chiếc rìu tay thuộc sơ kì thời đại đá cũ ở miền đông Nam Bộ có đặc điểm nhỏ gọn và định hình hơn những dụng cụ chặt thô kiểu cũ ở Núi Đọ.
Bên cạnh đó, ở khu vực Tây Nguyên, các nhà khoa học tiếp tục phát hiện một số di vật có dấu tích của thời kỳ đá cũ sơ kì. Trong “Những phát hiện mới về khảo cổ học ” năm 2003, các nhà khảo cổ học đã công bố việc tìm thấy một số công cụ đá cũ được chế tác từ loại đá Opal có nguồn gốc núi lửa, niên đại khoảng 85.000 – 125.000 năm cách ngày nay. Những công cụ đá trên được phát hiện tại xã Xuân Phú, huyện Eakar, tỉnh Đắc Lắc. Gần đây nhất, các nhà khảo cổ học đã phát hiện thấy hoá thạch vượn (Homo Erectus) và con người trong lớp trầm tích có tuổi 7,5 vạn năm ở hang Ma Ươi (thị trấn Mường Khến, huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình). Tại đây đã tìm được những chiếc răng nanh người có tuổi trễ nhất khu vực Đông Nam Á lục địa (7,5 vạn năm). Đây là một di tích quan trọng đã đóng góp cho công tác nghiên cứu quá trình xuất hiện và tiến hoá của loài người đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam.
Như vậy các dấu tích của người tối cổ cùng những công cụ lao động tìm thấy từ những di chỉ Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, núi Đọ, Ma Ươi. .. đã minh chứng cho sự có mặt từ rất sớm của người vượn trên lãnh thổ Việt Nam. Mặc dù còn cần nhiều bằng chứng xác thực hơn nữa mới có những kết luận chính xác nhất, nhưng phần lớn giới khảo cổ ở nước ta đều thống nhất nhận định: cách ngày nay khoảng chừng 20 – 30 vạn năm, ở cả hai miền Bắc và Nam đã có người tối cổ sinh sống. Mặt khác, từ các dấu tích khảo cổ tìm thấy được cũng cho phép chúng ta bước đầu nhận định: Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những nơi từ rất sớm đã là nơi cư trú, sinh sống của lớp con người đầu tiên: Người tối cổ (Người vượn).