Động phòng là gì? Đại đa số mọi người hiểu sai từ này

0
50
Rate this post

Nếu nhắc đến từ “Động phòng”, chắc hẳn mọi người sẽ liên tưởng đến câu thơ “Động phòng hoa chúc dạ” và hiểu là “đêm động phòng hoa chúc”, “đêm tân hôn”. Tuy nhiên, ý nghĩa của từ “động phòng” hiện nay đại đa số mọi người hiểu nhầm, cho rằng “động phòng” có nghĩa là “hoạt động phòng the”, mà chữ “động” ở đây là hang động, về mặt nghĩa đen, “động phòng” là phòng như hang động.

Từ Động phòng từng được sử dụng trong văn học lịch sử

Từ “Động phòng” có nguồn gốc và quá trình diễn biến ngữ nghĩa lâu đời. Thời xưa, người ta đã gọi phòng tân hôn là “động phòng” rồi. Các văn sĩ xưa đã sáng tác vô số tác phẩm với đề tài “động phòng”.

Từ “Động phòng” xuất hiện sớm nhất trong bài thơ Chiêu Hồn trong Sở Từ có nội dung: “Khoa dung tu thái, cắng động phòng ta” (Dung mạo xinh đẹp, hình dáng thon thả, bước đi uyển chuyển trong động phòng).

Dữu Tín thời Bắc Chu Trung Quốc có câu thơ: “Động phòng hoa chúc minh, vũ dư song yến khinh” (Động phòng hoa đuốc sáng, đôi én múa nhẹ nhàng).

Hồng Mại đời Tống viết câu thơ đẹp trong “Dung trai tùy bút”: “Động phòng hoa chúc dạ, kim bảng đề danh thì” (Đêm động phòng hoa chúc, lúc bảng vàng ghi danh).

Có thể thấy, từ “Động phòng” đã được sử dụng trong các tác phẩm văn học lịch sử từ rất lâu.

Tại sao lại gọi Phòng tân hôn là Động phòng?

“Động phòng” ban đầu không chỉ đề cập đến phòng tân hôn. Tương truyền, Tư Mã Tương Như – một danh tài đời Hán đã sáng tác một bài phú “Trường môn phú”. Bài thơ miêu tả chuyện Trần Hoàng hậu bị thất sủng, khi được biết Vũ Đế hứa sáng đi chiều đến, bà đã nấp nỏm đợi chờ. Đến khi trời sắp tối mà vẫn chưa thấy Vương Giá Lâm, bà tự nhủ trong lòng, “Huyền minh nguyệt dĩ tự chiếu hĩ, tồ thanh dạ ư động phòng” (Treo vầng trăng sáng tự chiếu mình, đến lúc đêm tối về phòng hang động).

Ở đây, “động phòng” không phải là phòng tân hôn, mà chỉ là phòng ở trong hoành cung lộng lẫy. Đến thời Bắc Chu, câu thơ của Dữu Tín “Động phòng hoa chúc minh” là lần đầu tiên kết hợp “động phòng” với “hoa chúc” (đèn hoa, hoa đuốc).

Trong thời nhà Đường, từ “động phòng” được sử dụng để chỉ nơi nam nữ yêu đương, miêu tả tình cảm tại khuê phòng. Ví dụ:

  • “Lạc diệp lưu phong hướng ngọc đài, dạ hàn thu tư động phòng khai” (Lá rụng gió bay đến ngọc đài, đêm thu lạnh nhớ động phòng khai).

  • “Mạc xuy Khương địch kinh lân lý, bất dụng tỳ bà huyên động phòng” (Chớ thổi sáo Khương kinh hàng xóm, chẳng gảy tỳ bà nhiễu động phòng).*

Trong những câu thơ này, “động phòng” vẫn chưa chỉ đến phòng tân hôn.

Thời nhà Đường, Phật giáo phổ biến, “động phòng” còn được dùng để chỉ phòng tu của tăng nhân, tức phòng của hòa thượng tu hành trên núi. Vương Duy có câu thơ: “Động phòng ẩn thâm trúc, thanh dạ văn dao tuyền” (Phòng tu ẩn sau khóm trúc, đêm thanh văng vẳng tiếng suối xa).

Từ thời Trung Đường trở đi, từ “động phòng” dần dần mở rộng nghĩa là phòng tân hôn. Chu Khánh Dư có câu thơ: “Động phòng tác dạ đình hồng chúc, đãi hiểu đường tiền bái cữu cô” (Động phòng đêm tắt hồng đuốc, đợi sáng lên bái bố mẹ chồng).

Trong tác phẩm “Cổ kim tiểu thuyết” của tài tử đời Minh Phùng Mộng Long, có viết: “Hai người bái thiên địa, rồi bái cha chồng, mẹ chồng, sau đó phu thê giao bái, lễ xong, trở về động phòng mở tiệc hoa chúc”.

Câu thơ nổi tiếng nhất về “Động phòng” là của Hồng Mại đời Tống: “Động phòng hoa chúc dạ, kim bảng đề danh thì” (Đêm động phòng hoa chúc, lúc bảng vàng ghi danh). Câu thơ bất hủ này được mọi người yêu thích và lưu truyền rộng rãi từ đó đến ngày nay. Từ đó, từ “động phòng” trở thành danh từ chuyên dùng chỉ phòng tân hôn.

Hai người bái thiên địa, rồi bái cha chồng, mẹ chồng, sau đó phu thê giao bái, lễ xong, trở về động phòng mở tiệc hoa chúc

Từ đó, từ “Động phòng” được sử dụng rộng rãi ở vùng Trung Nguyên và dần lan sang các nước Á Đông, bao gồm cả Việt Nam, và được sử dụng đến ngày nay. Tuy nhiên, trong truyền thuyết dân gian, từ “Động phòng” này được cho là quy định bởi Hiên Viên Hoàng Đế.

Từ “Động phòng” theo truyền thuyết dân gian

Hoàng Đế đã đánh bại Xi Vưu, chấm dứt chiến tranh, xây dựng liên minh giữa các bộ lạc, chấm dứt tục quần hôn, khởi đầu thời kỳ văn minh nhân loại.

Tuy nhiên, quần hôn lại trở thành mối nguy cơ nghiêm trọng cho sự đoàn kết của các bộ lạc mới thành lập. Vì quần hôn thường dẫn đến cuộc tranh chấp, cướp hôn nam nữ. Các bộ lạc xảy ra mâu thuẫn và chiến tranh vì chuyện cướp hôn. Ngày càng lâu, mâu thuẫn giữa các bộ lạc trở nên ác liệt, khả năng liên minh tan rã là rất cao.

Hoàng Đế lo lắng và suy nghĩ nhiều về vấn đề này. Ông triệu tập các đại thần như Thường Tiên, Đại Hồng, Phong Hậu, Lực Mục, Thương Hiệt đến để bàn bạc cách ngăn chặn quần hôn và xây dựng chế độ một vợ một chồng. Tuy nhiên, không ai có ý tưởng hợp lý.

Một ngày nọ, Hoàng Đế cùng các đại thần đi kiểm tra các hang động nơi người dân sinh sống, xem có an toàn hay không. Họ phát hiện một gia đình sống trú trong 3 hang động, nhằm bảo vệ bản thân khỏi sự tấn công của thú dữ. Xung quanh hang động, họ xây tường cao bằng đá, chỉ để một cửa chật hẹp để người đi vào và ra khỏi hang. Phát hiện này khiến Hoàng Đế rất vui mừng. Tối hôm đó, ông lại triệu tập các đại thần. Hoàng Đế nói: “Ta đã có ý tưởng ngăn chặn quần hôn, bây giờ ta muốn đề xuất để mọi người thảo luận và xem xét liệu nó có hiệu quả không”.

+Các đại thần đều thèm khát nghe ý tưởng của Hoàng Đế. Ông nói: “Hôm nay chúng ta đã thấy hang động mà dân chúng sống, ta nghĩ, biện pháp duy nhất để ngăn chặn quần hôn là khi kết hôn, mọi người trong bộ lạc đều tập trung để chúc mừng, tổ chức nghi lễ. Đầu tiên bái thiên địa, sau đó bái cha mẹ, sau đó phu thê giao bái. Sau đó, mọi người uống rượu chúc mừng, hát ca nhảy múa, tuyên bố hai người đã kết hôn chính thức. Sau đó, đưa hai vợ chồng vào một phòng hang động đã sẵn sàng trước đó, xây tường cao xung quanh, chỉ để một cửa ra vào. Họ sẽ ăn uống trong phòng đó từ 3 tháng đến 40 ngày để xây dựng tình cảm vợ chồng và học cách sống, nấu ăn.”*

“Từ nay về sau, khi mọi người trong bộ lạc kết hôn, nam nữ sẽ vào phòng ở hang động, gọi là động phòng, đánh dấu sự kết hôn chính thức và không được phép cướp người của người khác. Để phân biệt người đã kết hôn và người chưa kết hôn, phụ nữ đã kết hôn sẽ không được thả tóc nữa mà phải buộc tóc. Mọi người có thể nhìn thấy và biết phụ nữ này đã kết hôn, những đàn ông khác không thể có ý đồ gì với cô nữa, nếu làm vậy sẽ vi phạm quy định pháp luật của bộ lạc”.

Hoàng Đế nói xong ý tưởng của mình, các đại thần Thường Tiên, Đại Hồng, Lực Mục và những người khác đều ủng hộ. Họ đề nghị Thương Hiệt viết quy định pháp luật và công bố cho dân chúng. Quy định này được dân chúng các bộ lạc ủng hộ nhanh chóng. Họ cùng nhau xây động, xây tường cho con cái của mình. Khi con cái kết hôn, sau khi tổ chức lễ rồi, đưa hai người mới kết hôn vào động phòng. Như vậy, tục quần hôn dần dần biến mất và chế độ một vợ một chồng được hình thành.

Dnulib.edu.vn