Nguyễn Đình Chiểu – Cuộc Đời Và Sự Nghiệp
Nguyễn Đình Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822, tại làng Tân Khánh, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, mẹ là Trương Thị Thiệt, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định.
Tuổi Thanh Xuân
Nguyễn Đình Chiểu trải qua những năm thanh niên tại Huế và chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã khiến cha ông bỏ trốn ra Huế và bị cách chức. Năm 1833, cha ông đưa ông về miền Nam và gửi cho một người bạn ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 12 đến 19 tuổi.
Năm 1843, ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định, đúng vào năm 21 tuổi. Khi ấy, có một gia đình họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Khó Khăn Và Chông Chênh
Năm 1847, ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849. Nhưng trước lúc kịp thi, ông nhận được tin mẹ qua đời tại Sài Gòn (1849). Trên đường trở về chịu tang mẹ, ông bị bệnh và mất cả mắt. Trong thời gian nghỉ ở Quảng Nam chữa bệnh, ông học được nghề thuốc từ một danh y.
Đui mù, mất mẹ, hôn thê bỏ chạy, cảnh nhà yếu… Ông sống trong sự chịu đựng tang tóc cho đến năm 1851, khi ông mới mở trường dạy học và làm thuốc.
Sự Nghiệp Văn Học
Năm 1854, một học trò của ông tên là Lê Tăng Quýnh, ngưởi Cần Giuộc (Long An), xin gia đình gả em gái thứ năm của mình tên Lê Thị Điền cho ông. Từ đó, ông đã sáng tác những truyện thơ Lục Vân Tiên và Dương Từ – Hà Mậu, để truyền tải tình yêu và hoài bão của mình.
Cuộc Chiến Vĩnh Viễn
Ngày 17 tháng 2 năm 1859, Pháp chiếm gia Định. Ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Tại đây, ông đã sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một tác phẩm được nhiều người đánh giá cao.
Khi miền Đông rơi vào tay quân Pháp, Nguyễn Đình Chiểu không chịu sống trong vùng bị chiếm đóng. Ông cùng gia đình chạy xuống làng An Đức, tỉnh Bến Tre. Tại đây, ông tiếp tục dạy học và bốc thuốc, đồng thời duy trì liên lạc với những người yêu nước và tham gia các hoạt động kháng chiến.
Kế Thừa Di Sản
Trong thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều bài thơ bi thương nhất, đau lòng cho những người đã mất. Tình yêu và đam mê của ông trong việc viết văn không hề suy giảm.
Ngày 3 tháng 7 năm 1888, ông qua đời tại Bến Tre. Lúc đưa ông đi an táng, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những người mến mộ ông.
Nguyễn Đình Chiểu – Một Tâm Hồn Trên Văn Bản
Về nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Văn Châu đã tường thuật: “Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Dù cuộc đời gặp nhiều khó khăn, sự nghiệp của ông không bị kìm hãm bởi số phận. Ông đã vượt qua khó khăn để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, thể hiện một thái độ sống có văn hóa và nhân cách cao đẹp. Trên con đường của một nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện chất sâu sắc và thâm thúy trong thơ văn, biểu hiện tình yêu và hoài bão của mình một cách rõ ràng và chân thành.”
Phạm Thế Ngũ cũng đã nhận xét: “So với những tác phẩm của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu có thái độ tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Mặc dù không tham gia vào cuộc chiến tranh, ông có tình yêu và đồng cảm với những người dân và chia sẻ cùng họ tình yêu quê hương, lòng căm ghét đối với quân xâm lược và bọn ngoại bang.”
Di Sản Văn Học
Nguyễn Đình Chiểu đã để lại những thành tựu đáng kể trong sự nghiệp văn học. Truyện thơ Lục Vân Tiên dài 2.083 câu thơ đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong dân gian, đặc biệt là ở Nam Kỳ. Truyện này chỉ trích những con người độc ác, xấu xa và ca ngợi những tấm lòng nhân hậu, thủy chung.
Tác phẩm Dương Từ, Hà Mậu dài 3.448 câu thơ đã mạnh mẽ công kích đạo Phật và đạo Thiên Chúa, hai đạo lý thời đó được coi là nguy cơ cho đất nước. Tác giả sử dụng trí tưởng tượng để cho các nhân vật tự “giải mê” trong cuộc hành trình tìm chân lý đầy khó khăn và trở về trong sự hòa hợp của gia đình, làng nước.
Nguyễn Đình Chiểu là người đầu tiên mở đầu cho văn chương yêu nước Việt Nam chống lại sự xâm lược của Pháp vào nửa sau thế kỷ XIX. Thơ văn của ông liên kết chặt chẽ với những biến cố lịch sử lớn của đất nước thời bấy giờ. Ông đã để lại những tác phẩm như Chạy Tây (1859), Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc (1861), Cáo thị, Thảo thử hịch, Thư gửi cho em, Mười hai bài thơ điếu Trương Định (1864), Mười hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh (1874) và hai tập truyện thơ dài Dương Từ – Hà Mậu và Ngư tiều y thuật vấn đáp.
Dù gặp nhiều khó khăn trong cuộc đời, Nguyễn Đình Chiểu đã để lại di sản văn học vô cùng quý giá cho dân tộc. Những tác phẩm của ông vẫn là nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ sau này.