Nhân vật lịch sử: Phan Bội Châu
Phan Bội Châu (1867 – 1940) là một danh sĩ và nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc.
Tên gọi đặc biệt
Phan Bội Châu, thực ra, tên gốc của ông là Phan Văn San. Tuy nhiên, do tên San trùng với tên của vua Duy Tân (tức Vĩnh San), nên ông buộc phải đổi tên thành Phan Bội Châu. Hai chữ “bội châu” trong tên ông được lấy từ câu [Thành trung nga mi nữ châu bội hà san san].
Ngoài ra, ông còn có nhiều biệt hiệu và bút danh khác như Thị Hán, Phan Giải San, Sào Nam Tử, Hạo Sinh, Hiếu Hán, và nhiều biệt danh khác.
Thân thế
Phan Bội Châu sinh vào ngày 26 tháng 12 năm 1867, tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Cha của ông là Phan Văn Phổ, mẹ là Nguyễn Thị Nhàn. Ông đã được biết đến từ nhỏ với tài năng thông minh. Lúc 6 tuổi, ông đã học Tam Tự Kinh chỉ trong vỏn vẹn 3 ngày và hiểu hết nội dung. Lúc 7 tuổi, ông đã đọc hiểu sách Luận Ngữ và khi 13 tuổi, ông đã đỗ đầu huyện.
Ngay từ khi còn trẻ, ông đã mạnh dạn thể hiện lòng yêu nước của mình. Lúc 17 tuổi, ông đã viết bài “Hịch Bình Tây Thu Bắc” và dính lên cây đa đầu làng để ủng hộ cuộc khởi nghĩa kháng Pháp ở Bắc Kỳ. Năm 19 tuổi (1885), ông cùng bạn Trần Văn Lương lập đội “Sĩ tử Cần Vương” với hơn 60 người, nhằm chống lại thực dân Pháp. Tuy nhiên, đội của ông đã bị đối phương dồn vào cảnh khốn khó, buộc ông phải giải tán.
Với tình hình gia đình khó khăn, ông đã đi dạy học để kiếm sống và tiếp tục học thi. Năm 1897, trong kỳ thi Đinh Dậu, ông vượt qua và được nhận vào trường nhì nhưng bạn của ông là Trần Văn Lương đã đánh lừa ông bằng cách giấu một số cuốn sách, khiến ông bị kỷ luật không được thi.
Sau sự việc này, Phan Bội Châu đã đến Huế dạy học. Nhờ sự đồng cảm với tài năng của ông, các quan chức đã yêu cầu vua Thành Thái xóa bỏ án phạt. Nhờ điều này, ông đã đỗ đầu trong kỳ thi tiếp theo, tức là năm Canh Tý (1900), tại trường thi Nghệ An.
Hoạt động cách mạng
Thành lập Duy Tân hội, sang Nhật cầu viện
Sau khi đỗ đầu, trong vòng 5 năm, Phan Bội Châu đã đi khắp Việt Nam và giao lưu với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (hay còn gọi là Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê Đại, và nhiều người khác.
Phan Bội Châu đã ra mặt chỉ trích việc thực dân Pháp cấm giảng dạy lịch sử Việt Nam thay vào đó là lịch sử Pháp, nhằm xóa bỏ những ảnh hưởng của văn hóa truyền thống Việt Nam và truyền phổ biến văn hóa Pháp để đồng bóng người Việt. Đồng thời, ông cũng chỉ trích nền giáo dục của thực dân Pháp ở thuộc địa là “chỉ dạy người Việt viết văn Pháp, nói tiếng Pháp, tạm thời làm nô lệ cho Pháp”.
Năm 1904, ông và Nguyễn Hàm cùng khoảng 20 đồng chí thành lập Duy Tân hội ở Quảng Nam để đánh đuổi thực dân Pháp. Hội đã chọn Kỳ Ngoại hầu Cường Để, một người thuộc dòng dõi nhà Nguyễn, để làm chủ tịch.
Năm 1905, ông cùng với Đặng Tử Kính và Tăng Bạt Hổ sang Trung Quốc, sau đó là Nhật Bản, nhầm nhờ sự viện trợ từ Nhật để Duy Tân hội đánh đuổi thực dân Pháp. Tại Nhật, ông đã gặp Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng Trung Quốc, và được khuyên nên dùng thơ văn để thức tỉnh lòng yêu nước của người Việt Nam. Ông cũng nghe lời khuyên từ hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang có quyền lực ở Nhật Bản, đó là Ōkuma Shigenobu (Bá tước Ôi Trọng Tín) và Thủ tướng Inukai Tsuyoshi (Khuyển Dưỡng Nghị), rằng nên khuyến khích thanh niên ra nước ngoài học tập để sau này về giúp đất nước.
Tháng 6 năm 1905, Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính đem theo một số sách về Việt Nam. Tháng 8 cùng năm, tại Hà Tĩnh, ông và các thành viên trong Duy Tân hội đã họp bàn và lên kế hoạch hành động:
- Đưa Kỳ Ngoại hầu Cường Để ra nước ngoài.
- Lập các hội nông, hội buôn, hội học để tập hợp người dân và thu tiền để duy trì hoạt động của hội.
- Chọn một số thanh niên thông minh và hiếu học để đi du học ở nước ngoài.
Phong trào Đông Du
Trong ba nhiệm vụ trên, nhiệm vụ thứ ba là quan trọng và bí mật nhất. Duy Tân hội đã cử Phan Bội Châu và Nguyễn Hàm tự quyết định. Sau đó, phong trào Đông Du được hai người này phát động và thu hút đông đảo người dân ở cả ba miền đất nước tham gia và ủng hộ, đặc biệt là ở Nam Kỳ.
Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản cùng với ba thanh niên, và sau đó có thêm 45 người nữa. Năm 1906, Cường Để cũng đến Nhật và học tại trường Chấn Võ. Từ đó đến năm 1908, hơn 200 học sinh sang Nhật để học tập, sinh sống chung trong tổ chức Cống hiến hội.
Tháng 3 năm 1908, phong trào “cự sưu khất thuế” (hay còn gọi là phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ) nổi lên ở Quảng Nam và lan rộng ra các tỉnh khác. Bị thực dân Pháp đàn áp, nhiều thành viên trong Duy Tân hội bị bắt, trong đó có Nguyễn Hàm, một thành viên quan trọng của hội.
Sau những sự mất mát này, hai phái viên của Duy Tân hội là Hoàng Quang Thanh và Đặng Bỉnh Thành bị Pháp bắt giữ khi từ Nhật trở về Nam Kỳ để nhận tiền quyên góp cho phong trào Đông Du. Lúc này, Pháp và Nhật vừa ký hiệp ước và chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất các học sinh Việt Nam. Tháng 3 năm 1909, Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất. Với sự viện trợ của Nhật, phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và các thành viên khác đã xây dựng tan rã, kết thúc một giai đoạn hoạt động quan trọng của hội.
Hoạt động ở Trung Quốc
Một phần hội viên Duy Tân hội đã chuyển đến Quảng Đông để xây dựng căn cứ ở Bạn Thầm (Xiêm La). Tại đây, họ làm việc cày cấy, học tập và rèn luyện võ nghệ, chuẩn bị cho kế hoạch phục quốc trong tương lai.
Vào giữa tháng 5 năm Nhâm Tý (tháng 6 năm 1912), trong cuộc “Đại hội nghị” tại nhà Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Đông, các đại biểu từ khắp ba miền đã quyết định giải tán Duy Tân hội và thành lập Việt Nam Quang phục Hội. Tôn chỉ của hội đã thay đổi từ chủ nghĩa quân chủ sang chủ nghĩa dân chủ, nhằm đánh đuổi quân Pháp, phục hồi đất nước và lập nước Việt Nam Cộng hòa dân quốc. Điều này phản ánh tình hình mới trên trường quốc tế.
Đánh giá và tưởng niệm
Phan Bội Châu đã để lại di sản đáng kính trong lịch sử Việt Nam. Ông đã giúp đẩy mạnh phong trào dân tộc và cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Tên ông đã được đặt cho nhiều trường học và con đường trên khắp cả nước. Tại Huế, khu di tích và đài tưởng niệm Phan Bội Châu nằm trên con đường cùng tên. Nơi đây bao gồm lăng mộ và nhà tranh nhỏ mà ông đã sống, cách nhau chỉ vài bước chân.
Phan Bội Châu đã để lại nhiều tác phẩm văn học, lịch sử và thi ca về cách mạng Việt Nam. Các tác phẩm nổi tiếng bao gồm “Việt Nam vong quốc sử”, “Việt Nam Quốc sử khảo”, và “Ngục Trung Thư”. Ông cũng đã viết nhiều bài viết biên khảo và thi ca khác nhau, như “Ký niệm lục”, “Vấn đề phụ nữ”, và “Sào nam văn tập”.
Dù có những ý kiến đa dạng về việc Phan Bội Châu ủng hộ phong trào cộng sản hay không, nhưng ông đã để lại một di sản lớn và nhận được sự tôn kính của nhiều người dân Việt Nam.
Bài viết sửa đổi bởi Dnulib. Xem thêm tại Dnulib.