Thái Bình với cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng (791-803)

0
51
Rate this post
Video phùng hưng quê ở đâu

Tổng quan về cuộc khởi nghĩa và ảnh hưởng của Phùng Hưng

Cuộc khởi nghĩa do Phùng Hưng lãnh đạo là cuộc khởi nghĩa chống lại sự thống trị của nhà Đường (Trung Quốc) và đánh chiếm Tống Bình (Hà Nội). Đây là một cuộc khởi nghĩa có ảnh hưởng rộng lớn đến cả khu vực Giao Châu. Phùng Hưng là một nhà lãnh đạo xuất xứ từ làng Đường Lâm, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Nội ngày nay. Trong thời gian từ năm 791 đến 803, ông đã lập đồn binh tại Thái Bình và trở thành vị vua của không chỉ Tống Bình mà còn cả Giao Châu và An Nam.

Bối cảnh lịch sử và đặc điểm của cuộc khởi nghĩa

Trong thời kỳ nước ta thuộc sự cai trị của nhà Đường, dân chúng phải chịu trách nhiệm đóng góp thuế, gánh nặng công việc tạp dịch. Vào năm 791, Phùng Hưng tập hợp quân nghĩa từ Đường Lâm và xâm chiếm thành Tống Bình. Sau khi quận đô uy Cao Chính Bình qua đời vì sợ, Phùng Hưng và Phùng Hải đã tiếp quản quản lý các châu huyện. Trong khi đó, người Chà Và và Côn Lôn tiếp tục cướp phá ven vùng Chu Diên. Phùng Hưng đã trở về đánh đối đầu với kẻ thù và xây dựng đồn binh tại làng Roi, xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư để bảo vệ vùng hạ lưu, đồng thời làm chủ Tống Bình.

Ý nghĩa của thành đồn xây dựng bởi Phùng Hưng

Thành đồn do Phùng Hưng xây dựng nằm gần cửa Tuần Vường (cửa Vàng), giao điểm giữa sông Hồng và sông Trà Lý. Đây là một điểm quan trọng để tiếp cận Long Biên, Tống Bình và Đại La vào thời xa xưa, và sau này là Thăng Long. Người ta đã miêu tả địa điểm này như sau: “Một trăm cửa bể phải nể cửa Vàng (Vường)”. Phùng Hưng đã mất, con trai là Phùng An không thể duy trì công lao của cha và buộc phải đầu hàng trước sự áp bức của Đô hộ Triệu Xương. Phùng Lã Tu đã cố gắng giữ cửa Vàng và hy sinh vì nó.

Tiểu sử và công lao của Phùng Hưng

Thông qua các tài liệu Hán Nôm, ta được biết rằng, khi Phùng Hưng ra đời, ông có ngoại hình đặc biệt với khuôn mặt vuông vức, tai to, thân thể đỏ như son, bụng có vằn mây và được ghi dòng chữ “Bố Cái đại vương thiên thần, tế thế an dân”. Trong lúc ông chào đời, mây vàng tự nhiên từ trên trời bay xuống và ánh sáng chiếu rọi khắp căn phòng. Ngày đó cũng là ngày mùng 10 tháng Giêng, năm Bính Ngọ. Một trăm ngày sau khi sinh, ông đã nói rõ ràng. Cha ông, Bá Công, đã đặt tên là Hưng cho ông dù ông chưa học chữ nhưng biết cách đọc viết. Lúc 16 tuổi, ông đã cao lớn, khỏe mạnh và có sức mạnh phi thường. Ông có thể nhấc lên cả trăm ký và giết hổ bằng búa sắt. Ông cũng rất thông minh, gan dạ, hào hiệp và rộng lượng. Ông luôn giúp đỡ những người nghèo khó yếu đuối. Trong thời điểm đó, nước ta bị người Tầu cai trị và gây ra nhiều khó khăn, bóc lột dân chúng. Phùng Hưng đã kêu gọi nhân dân đứng lên khởi nghĩa và hàng vạn người đã đồng hành cùng ông. Quân đội tiến công như làm chẻ tre và phá hủy sự sắp đặt của kẻ thù, giải phóng thành Long Biên. Phùng Hưng lên ngôi vua và tự xưng là Bố Cái đại vương.

Cuộc sống gia đình của Phùng Hưng

Một lần, khi ông vào thăm ngôi làng Lộc Điền, huyện Thư Trì, dân chúng đã đón ông bằng trâu bò, gà, lợn và tổ chức lễ đón tiếp. Ông đã dừng quân đội lại trong ba, bốn ngày và thăm hỏi dân chúng. Trong ngôi làng này, có một gia đình khá giả tên Nguyễn, ông Nguyễn Thành và vợ ông Lê, thường được gọi là Hoan Nương. Họ có hai cô con gái là Hồng Loan Nương và Nhị Nương. Khi Phùng Hưng gặp hai cô gái này, ông đã cảm thấy như mình đã lạc vào thiên đường. Ông hỏi thăm dân chúng và sau đó vào nhà gia đình Nguyễn để xin làm vợ. Ông lập cô cả làm Hoàng hậu và cô em làm Phi. Ông cũng cho quân sĩ và dân chúng xây dựng một cung điện nhỏ, với mặt đằng về phía Bắc và mặt đối diện về phía Nam, để hai bà sống trong đó, sau đó ông đưa quân đội trở về triều đình…

Sự tưởng nhớ và tín ngưỡng

Trong suốt cuộc đời vua, Phùng Hưng đã trao công lao vô cùng tại các vùng Thư Trì và Chu Diên. Sau khi ông mất, dân làng Phú Chử và Lộc Điền đã xây dựng đền thờ ông và Phùng Lã Tu và tôn ông là thành hoàng. Các lễ hội hàng năm để tưởng nhớ về Bố Cái đại vương Phùng Hưng và tướng Phùng Lã Tu được tổ chức vào ngày 10/11. Trong những năm có mưa phùn, lễ hội kéo dài ba ngày (từ 10 đến 12). Lễ hội bao gồm việc diễu hành quanh làng, sau đó là lễ tế trong đền, với những món lễ như xôi, gà, lợn, hoa quả… Phần hội có các hoạt động như hát ca trù, diễn chèo, thi vật, đi cầu kiều, bắt vịt… Lễ hội này thu hút đông đảo dân làng tham gia. Ngày nay, người dân thường tới đền thờ và dâng hương trong một ngày duy nhất.

Tham khảo: dnulib.edu.vn