Quy hoạch và phát triển
Quận 9 nằm ở phía đông Thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố khoảng 13 km theo xa lộ Hà Nội. Vị trí địa lý của quận như sau:
- Phía đông giáp huyện Long Thành và thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, có sông Đồng Nai là ranh giới tự nhiên.
- Phía tây giáp quận Thủ Đức, có Xa lộ Hà Nội là ranh giới.
- Phía nam giáp huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai (qua sông Đồng Nai) và Quận 2.
- Phía bắc giáp thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Quận 9 có diện tích 113,97 km², dân số năm 2019 là 310.107 người, mật độ dân số đạt 2.721 người/km².
Giao thông trong Quận 9
Quận 9, thuộc TP Thủ Đức, có tổng diện tích là 11.389,62 ha. Phía đông giáp tỉnh Đồng Nai; phía tây giáp quận 2 qua sông Rạch Chiếc, rạch Bà Cua và đường Tân Lập; phía nam giáp tỉnh Đồng Nai qua sông Đồng Nai; phía bắc giáp quận Thủ Đức qua Xa lộ Hà Nội.
Về quy hoạch giao thông, UBND TP HCM đã ban hành Quyết định số 5758/QĐ-UBND ngày 12/11/2012 về duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng quận 9 đến năm 2020, tỷ lệ 1/10.000. Quy hoạch này vẫn có hiệu lực cho đến khi quy hoạch mới được lập, công bố. Quy hoạch giao thông quận 9 cũng được thể hiện trên bản đồ định hướng phát triển không gian đến năm 2025 của TP HCM.
Theo quyết định 5758, quy hoạch giao thông quận 9 bao gồm:
- Mở rộng và hoàn thiện các tuyến đường hiện hữu theo lộ giới.
- Quy hoạch các tuyến giao thông đường bộ có chức năng đối ngoại, nối kết các vùng, khu vực đô thị kế cận, bao gồm đường Xa lộ Hà Nội (Quốc lộ 52), Quốc lộ 1A, đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây, đường Vành đai 2, Vành đai 3, đường nối Vành đai 3.
- Quy hoạch các tuyến giao thông đường bộ đối nội trên cơ sở các tuyến đường chính hiện hữu dự kiến nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới.
- Về giao thông đường sắt, dự kiến xây dựng tuyến đường sắt cao tốc thành phố Hồ Chí Minh – Nha Trang đi qua quận 9 nối ga Thủ Thiêm, và quy hoạch Depot (quy mô 40ha) cho tuyến đường sắt cao tốc sát bên bến xe sông Tắc, phường Long Trường.
- Về giao thông đường sắt đô thị, cập nhật quy hoạch tuyến đường sắt đô thị số 1 (Bến Thành – Suối Tiên) đi theo Xa lộ Hà Nội và kết thúc tại Depot Suối Tiên.
- Về giao thông thủy, quy hoạch các tuyến sông kênh rạch trên địa bàn quận 9 có chức năng giao thông thủy theo quy hoạch mạng lưới đường thủy và cảng, bến khu vực thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ nay đến năm 2020.
Bản đồ quận 9 và số phường
Quận 9 ban đầu là vùng đất hoang rừng rậm, thú rừng vẫn tồn tại và sống thành từng đàn. Dân cư ở đây thưa thớt, hầu hết sống trên vùng cao và chuyên về nông nghiệp, chăn nuôi và săn bắt.
Trong thế kỷ 15, sau cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà hậu Trần thất bại, một số tàn quân rút về Thuận Hóa, một số bỏ chạy sang Lào, số còn lại đi xuống phía Nam đến vùng này. Tới thế kỷ 17, một tàn quân khác của nhà Minh chạy trốn nhà Thanh, đến từ Long Môn (Khâm Châu, Quảng Tây). Nhóm này đã khai phá rừng rậm, canh tác và sống chung với dân bản địa, tạo thành một cộng đồng dân cư đông đảo.
Trong năm 1623, các chúa Nguyễn đã tạo mối thiện cảm với triều đại Chân Lạp để đưa dân cư từ vùng Thuận Quảng vào lập nghiệp. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đến đây kinh lý và lập phủ Gia Định, huyện Phước Long, thành Trấn Biên, huyện Tân Bình, thành Phiên Trấn và quản lý hành chánh, quân lính.
Năm 1808, huyện Phước Long được nâng lên phủ Phước Long, bốn tổng được nâng lên thành 4 huyện. Mỗi huyện gồm 2 tổng và quận 9 thuộc tổng Long Vĩnh.
Năm 1821, địa bàn hai tổng được chia làm bốn tổng. Mãi đến năm 1836, đất này mới được đo đạc, cùng với toàn bộ ruộng đất trên cả sáu tỉnh Nam Kỳ. Công cuộc này được thực hiện bởi Trương Đăng Quế và Trương Minh Giảng, và từ đó các thôn phường mới được thành lập.
Năm 1837, khi ranh giới hành chánh của tỉnh Biên Hòa thay đổi, hai huyện Long Thành và Phước An được tách ra khỏi phủ Phước Long để thành lập phủ mới, tên là Phước Tuy.
Khi người Pháp chiếm đóng tỉnh Biên Hòa và thành lập chính quyền thực dân, họ giải thể hết các cấp tỉnh, phủ, huyện và chia địa bàn tỉnh thành 13 địa hạt (Arrondisements), bao gồm tỉnh Biên Hòa cũ (được chia làm 5 địa hạt).
Sau đó 5 năm, người Pháp chiếm toàn bộ 6 tỉnh Nam Kỳ. Năm 1867, họ chia địa bàn thành 24 đơn vị hành chính, gọi là tham biện (Administrateurs). Từ đó, các làng thuộc tổng Long Vĩnh Hạ được sáp nhập vào hạt tham biện Sài Gòn.
Năm 1920, tỉnh Gia Định được chia thành 4 quận: Thủ Đức, Hóc Môn, Gò Vấp và Nhà Bè. Năm 1965, tổng Long Vĩnh Hạ được tách ra khỏi quận Dĩ An, nhập trở lại quận Thủ Đức. Năm 1967, xã An Khánh được tách ra từ quận Thủ Đức và nhập vào quận 1 của Đô thành Sài Gòn, thành lập hai phường là An Khánh và Thủ Thiêm. Sau đó, An Khánh và Thủ Thiêm lại được tách ra để thành lập quận 9 của Đô thành Sài Gòn. Trên địa bàn Thủ Đức cũng được lập thêm xã Phước Bình.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền cách mạng sắp xếp lại các đơn vị hành chính trong thành phố. Quận Thủ Đức được gọi là huyện ngoại thành, và quận 9 của Đô thành Sài Gòn được giải thể. Hai phường An Khánh và Thủ Thiêm chuyển thành hai xã và thuộc huyện Thủ Đức. Năm 1997, quận 9 được tái lập trên cơ sở các xã và phường thuộc huyện Thủ Đức, và thành lập các phường mới.
Hiện nay, quận 9 có tổng cộng 13 phường.
Chi tiết bản đồ quy hoạch và đặc điểm địa lý
Diện tích tự nhiên của phường Tăng Nhơn Phú A là 416 ha, chia thành 7 khu phố với 82 tổ dân phố. Phường này có 12.442 hộ dân, tổng cộng 46.743 nhân khẩu, trong đó có 5.206 hộ và 20.943 nhân khẩu thường trú, 6.237 hộ và 24.891 nhân khẩu tạm trú, 1.009 hộ và 1.009 nhân khẩu lưu trú.
Về khí hậu, phường Tăng Nhơn Phú A nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo. Nơi đây có nhiệt độ cao và chia thành hai mùa rõ rệt, mùa mưa và mùa khô, ảnh hưởng mạnh mẽ đến môi trường và cảnh quan của địa phương.
UBND Quận 9 – Ủy ban Nhân dân Quận 9 là cơ quan quản lý địa phương. Để đến UBND Quận 9, bạn có thể dễ dàng tra cứu trên Google Map để có thông tin chi tiết.
Đọc thêm tại dnulib.edu.vn