1. Một số vấn đề phổ biến
1.1. Quy trình tạo lập văn bản
Tạo lập văn bản, còn được gọi là viết văn bản, tương tự như xây dựng một công trình. Đó là quá trình tổng hợp nhiều công việc thành một quy trình gồm các bước như định hướng, lập đề cương, viết văn bản và hoàn thiện văn bản. Các bước này liên kết chặt chẽ với nhau, tương tác với nhau theo hai loại quan hệ: quan hệ thứ tự và quan hệ đồng thời. Quan hệ thứ tự đề cập đến trình tự các bước, bước này làm tiền đề cho bước tiếp theo; quan hệ đồng thời đề cập đến bước hoàn thiện văn bản, có những công việc phải tiến hành đồng thời với bước lập đề cương.
1.2. Xây dựng lập luận
a. Lập luận và vai trò của lập luận
Lập luận là sự thiết lập một hoặc một số lý lẽ để dẫn dắt người đọc/người nghe hướng đến một kết luận mà người viết/người nói muốn đạt được.
Khi tạo lập văn bản khoa học (và cả văn bản chính luận), người viết nhằm thuyết phục người đọc đồng ý với ý kiến và quan điểm của mình. Do đó, kỹ năng lập luận, trình bày lý lẽ và dẫn chứng là những kỹ năng hàng đầu giúp cho văn bản có sức thuyết phục mạnh mẽ và có giá trị cao. Lập luận thiếu chặt chẽ, không có logic hoặc không có sự phân tích mơ hồ khiến người đọc không hiểu, không tin tưởng, khiến sức thuyết phục của văn bản không cao và không đạt được mục tiêu đề ra.
b. Cách tổ chức lập luận
b1. Xây dựng luận cứ
Có hai loại luận cứ: luận cứ đồng loại và luận cứ khác loại; luận cứ đồng hướng và luận cứ nghịch hướng (so với kết luận).
Cách sắp xếp luận cứ: (trong lập luận) nếu các luận cứ đồng hướng với kết luận, luận cứ nào có hiệu lực lập luận mạnh hơn sẽ được xếp vào gần kết luận hơn; nếu có luận cứ đồng hướng và luận cứ nghịch hướng, luận cứ đồng hướng sẽ được xếp gần kết luận hơn.
b2. Xây dựng kết luận
Kết luận là mục đích cuối cùng của lập luận, nó phải tương thích với các luận cứ được nêu ra, và phù hợp với mục tiêu của lập luận. Kết luận thường đứng sau các luận cứ. Chú ý sử dụng các từ chỉ lập luận (từ lập luận và kết từ lập luận).
2. Thực hành tạo lập văn bản thông dụng
2.1. Định hướng
a. Định hướng và vai trò của định hướng
Định hướng là quá trình xác định mục tiêu, tức là tìm ra mục đích mà văn bản cần hướng đến. Đây là bước đầu tiên quyết định quá trình tạo lập văn bản: chỉ khi đã thực hiện bước này, các bước tiếp theo mới có thể triển khai; nó quyết định sự thành bại của văn bản, vì định hướng chính xác mới có thể đạt hiệu quả (làm một li, đi một dặm).
b. Cách thức thực hiện định hướng
Thực chất của định hướng là xác định và trả lời các câu hỏi: Văn bản được viết để làm gì? Văn bản được viết cho ai? Văn bản viết về điều gì? Văn bản được viết như thế nào? Tổng hợp các vấn đề này, người viết xác định nội dung cốt lõi (chủ đề) của văn bản, phạm vi và cách giải quyết.
Ví dụ 1: Với đề tài khóa luận tốt nghiệp: Khảo sát động vật học tiếng Việt, thực hiện bước định hướng là: (khóa luận phải tập trung làm sáng tỏ) cách gọi động vật trong dân gian và sự phân nhóm, đánh giá của người Việt đối với động vật. Phạm vi tư liệu nghiên cứu có thể ở một vùng địa phương, hoặc có thể ở nhiều vùng (do người viết tự xác định).
Ví dụ 2: Với đề tài bài báo: Chất thơ trong truyện Nguyễn Tuân, TS. Đặng Lưu xác định phương hướng cho bài viết là: những biểu hiện của chất thơ trong truyện Nguyễn Tuân, từ đó làm nổi bật tính chất xuyên thể loại – một điểm đặc biệt trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Tư liệu nghiên cứu bao gồm tập truyện Chiếc lư đồng mắt cua và Vang bóng một thời.
2.2. Lập đề cương
a. Đề cương và vai trò của đề cương
Đề cương là bản thiết kế, khung nội dung của văn bản; nó bao gồm hệ thống các ý lớn, ý nhỏ được trình bày một cách mạch lạc nhằm thể hiện chủ đề của văn bản.
Đề cương có vai trò sau đây: 1/ Phác thảo nội dung tổng quát của văn bản, làm cơ sở cho người viết tự do trong quá trình viết; 2/ Có thể sửa đổi, bổ sung hay sắp xếp lại các ý một cách dễ dàng; 3/ Nhận biết và khắc phục các lỗi văn bản như thiếu ý, đứt mạch, lộn xộn, v.v..
Đề cương bao gồm đề cương tóm tắt và đề cương chi tiết. Đề cương tóm tắt chỉ trình bày các ý chính, thường là các mục lục (ví dụ: mục lục của một cuốn sách, một công trình, v.v.). Đề cương chi tiết trình bày hệ thống các ý, bao gồm ý lớn, ý nhỏ, ý chính, ý phụ, lý do, dẫn chứng một cách chi tiết.
b. Yêu cầu của đề cương
- Đề cương phải phù hợp với nội dung cốt lõi được xác định ở bước định hướng (triển khai nội dung của văn bản phù hợp với định hướng).
- Các yếu tố nội dung trong đề cương (ý lớn, ý nhỏ, lý do, dẫn chứng) phải được xác định, lựa chọn và sắp xếp chặt chẽ, mạch lạc.
- Bố cục của đề cương phải cân đối, nhất quán, sinh động và linh hoạt.
c. Các bước xây dựng đề cương
c1. Xác lập các yếu tố nội dung
Thường, chủ đề văn bản được triển khai thành các yếu tố nội dung chi tiết. Các yếu tố nội dung cấu thành chủ đề văn bản gồm chủ đề phụ, ý lớn, ý nhỏ, lý do và dẫn chứng cụ thể. Trong quá trình xác lập các yếu tố nội dung, cần chú ý:
-
Chỉ ra các khía cạnh, các mặt khác nhau của vấn đề, sự việc, hiện tượng, v.v. cần triển khai, giải quyết. Quá trình này tương đương với việc chia chủ đề văn bản thành các chủ đề phụ, xác định các chủ đề phụ phục vụ cho chủ đề văn bản. Ví dụ, trong bài báo Chất thơ trong truyện Nguyễn Tuân, tác giả đã triển khai chủ đề thành các chủ đề phụ: 1/ Cách nhìn mĩ hóa, làm hấp dẫn đối tượng; 2/ Khai thác chức năng thơ của ngôn ngữ. Các chủ đề phụ này xác định rõ những biểu hiện chất thơ trong truyện Nguyễn Tuân, qua đó khẳng định tính chất xuyên suốt các thể loại trong sáng tác của Nguyễn Tuân.
-
Chỉ ra các yếu tố nội dung chi tiết bao gồm ý lớn, ý nhỏ, lý do và dẫn chứng cụ thể để lí giải, chứng tỏ từng chủ đề phụ.
Chẳng hạn, trong chủ đề phụ Khai thác chức năng thơ của ngôn ngữ, trong bài báo Chất thơ trong truyện Nguyễn Tuân, tác giả xác định ba ý lớn: a/ Sử dụng lớp từ thi ca; b/ Vận dụng nguyên lí tương đương trong ngôn ngữ; c/ Gia tăng nhạc tính cho lời văn. Mỗi ý lớn lại được tác giả phân tích thành các ý nhỏ, sử dụng các lý lẽ và dẫn chứng để làm rõ. Chẳng hạn, ý lớn Gia tăng nhạc tính cho lời văn, tác giả triển khai hai ý: Ý 1: Tính nhạc trong thơ, trong văn xuôi và các yếu tố tạo nên tính nhạc; Ý 2: Những biểu hiện tính nhạc trong lời văn Nguyễn Tuân. Với ý 2, tác giả xác định các ý nhỏ: biểu hiện trong phối ứng thanh điệu; biểu hiện trong sử dụng từ láy; biểu hiện trong ngắt nhịp; biểu hiện trong phép lặp; biểu hiện trong phép sóng đôi. Mỗi khía cạnh như thế đều được lí giải qua các dẫn chứng điển hình.
Để xác định đầy đủ các yếu tố nội dung, ta có thể sử dụng các phương pháp phân tích từng khía cạnh, từng thuộc tính của đối tượng, hoặc đặt vấn đề (sự vật, hiện tượng, v.v.) trong các mối quan hệ so sánh.
c2. Sắp xếp các yếu tố nội dung
Sau khi xác định đủ nội dung cho từng phần, người viết tiến hành sắp xếp các yếu tố nội dung theo trật tự logic. Có hai cách sắp xếp chủ yếu sau đây:
- Sắp xếp theo thực tế khách quan, bao gồm:
- Theo thứ tự thời gian
Theo kiểu này, người viết sử dụng các từ biểu thị các thời điểm theo trình tự trước sau. Kiểu sắp xếp này phù hợp với văn bản chính luận, văn bản hành chính. Chẳng hạn, trong Tuyên ngôn Độc lập, khi diễn tả những hành động xâm phạm của thực dân Pháp, người viết sắp xếp:
- Những hành động xâm phạm của thực dân Pháp trong 80 năm.
- Những hành động xâm phạm của thực dân Pháp từ năm 1940 đến 1945.
-
Theo thứ tự không gian
Về không gian, có thể sắp xếp theo thứ tự từ xa đến gần, hoặc ngược lại. Kiểu trình bày này phù hợp với văn bản báo chí, văn bản nghệ thuật. -
Theo quan hệ nội tại: từ tổng thể đến các thành phần. Kiểu sắp xếp này phù hợp với văn bản khoa học. Chẳng hạn, văn bản Đặc điểm địa hình Việt Nam với hai chủ đề chính là: 1/ Đồi núi là bộ phận quan trọng nhất của cấu trúc địa hình Việt Nam; 2/ Địa hình Việt Nam được giai đoạn Tân kiến tạo nâng lên và thành nhiều bậc kế tiếp nhau là hai chủ đề bộ phận của chủ đề chung là địa hình Việt Nam rất đa dạng.
-
Theo quan hệ logic khách quan: quan hệ nguyên nhân – kết quả, quan hệ điều kiện – kết quả, v.v.. Chẳng hạn, văn bản Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường là sắp xếp nội dung theo kiểu nguyên nhân – kết quả.
- Sắp xếp theo logic chủ quan, bao gồm:
-
Theo mức độ quan trọng hoặc quan điểm của người viết
Mỗi người viết có thể sắp xếp nội dung theo một trình tự khác nhau, tuỳ thuộc vào cách đánh giá của mình về mức độ quan trọng của chúng. Chẳng hạn, để làm nổi bật chất thơ trong truyện Nguyễn Tuân, TS. Đặng Lưu trình bày hai chủ đề phụ theo trình tự: 1/ Cách nhìn mĩ hóa, làm hấp dẫn đối tượng; 2/ Khai thác chức năng thơ của ngôn ngữ. Trình tự sắp xếp như vậy là do quan điểm của người viết; người khác có thể sắp xếp theo một trật tự ngược lại. -
So sánh tương đồng và tương phản. So sánh tương đồng nhằm chỉ ra những đặc điểm, khía cạnh giống nhau giữa các sự việc, vấn đề, đối tượng được so sánh. So sánh tương phản lại nhằm chỉ ra những đặc điểm, những điểm khác biệt giữa các sự việc, vấn đề được so sánh. Đây là cách trình bày thường gặp trong các văn bản trong nhà trường, như tiểu luận, khóa luận, luận văn của sinh viên, học viên, các văn bản khoa học, v.v.. Có thể nói, bất kỳ đối tượng nào cũng có thể được khảo sát trong sự so sánh với các đối tượng khác. Tất nhiên, các đối tượng so sánh phải có cùng thuộc tính nào đó, nếu không, mọi so sánh sẽ không có giá trị. Chẳng hạn, khi khảo sát chất thơ trong truyện Nguyễn Tuân, có thể so sánh với truyện Thạch Lam, bởi trong truyện Thạch Lam cũng có chất thơ.
c3. Trình bày các yếu tố nội dung
Đây là bước sử dụng các kỹ thuật sắp xếp các yếu tố nội dung thành một hệ thống, làm cho nó trở nên rõ ràng, mạch lạc, dễ theo dõi. Khi trình bày đề cương, cần chú ý ba điểm sau đây:
-
Đặt tiêu đề, đề mục, tiểu mục cho các phần, các yếu tố nội dung. Các yếu tố nội dung ngang hàng phải được biểu thị bằng các cấu trúc ngôn ngữ tương tự. Chẳng hạn, một ý được diễn tả bằng một cụm từ, thì ý khác ngang hàng với nó cũng được diễn đạt bằng một cụm từ.
-
Sử dụng ngôn ngữ (từ ngữ, cụm từ, câu ngắn gọn) và các kỹ hiệu khác như chữ số (chữ số La Mã, chữ số Ả Rập), các chữ cái (a, b, c, …), các dấu – , + , * , … để trình bày các yếu tố nội dung.
-
Tránh các lỗi như lẫn lộn, không cân đối, không nhất quán.
d. Ví dụ minh họa cách trình bày một đề cương chi tiết
Ví dụ 1: Đề cương bài báo “Chất thơ trong truyện Nguyễn Tuân” của TS. Đặng Lưu
1. Dẫn nhập
- Trong văn học, mỗi thể loại có đặc điểm riêng, phản ánh kiểu tư duy nghệ thuật, một kiểu tiếp cận, một kiểu tổ chức ngôn ngữ đặc biệt. Tuy nhiên, các thể loại văn học vẫn có sự giao thoa, xuyên thấm vào nhau, đặc biệt là trong văn học hiện đại.
- Nhiều nhà nghiên cứu đã công nhận rằng các tác phẩm của Nguyễn Tuân như Chiếc lư đồng mắt cua và Vang bóng một thời đều mang tính chất thơ. Bài viết này phân tích một số biểu hiện chất thơ trong truyện của Nguyễn Tuân.
2. Những biểu hiện chất thơ trong truyện Nguyễn Tuân
2.1. Cái nhìn mĩ hóa, làm hấp dẫn đối tượng
- Tạo chất thơ từ cái nhìn
- Sự nhất quán trong cái nhìn Nguyễn Tuân
- Những biểu hiện
- Nhìn ra những vẻ đẹp ẩn trong mỗi con người, mỗi đồ vật.
2.2. Khai thác chức năng thơ của ngôn ngữ
- Khái niệm chức năng thơ
- Ý thức khai thác chức năng thơ của Nguyễn Tuân
- Các bình diện
- Sử dụng lớp từ thi ca
3. Kết luận
- Khẳng định truyện Nguyễn Tuân có tính thơ cao do nhiều yếu tố, nhưng ngôn ngữ đóng vai trò quyết định.
- Ngôn ngữ tác giả cũng được hình thành trên nguyên tắc đó.
2.3. Thực hiện viết văn bản
a. Yêu cầu của bước viết văn bản
Nếu đề cương là thiết kế nội dung của văn bản, nghĩa là chỉ là những mảnh ghép cơ bản, đến bước viết văn bản, người viết sử dụng các đơn vị ngôn từ (từ, câu, đoạn văn) và các phương tiện liên kết để biến đề cương thành văn bản hoàn chỉnh. Đây là bước khó khăn nhất, phức tạp nhất, yêu cầu các kỹ năng tổ chức văn bản. Yêu cầu viết văn bản gồm:
a1. Bám sát đề cương
Đề cương là chỉ dẫn chính của văn bản, do đó viết văn bản là triển khai từ một thiết kế, tức là từ đề cương. Tự nhiên, phải bám sát đề cương.
a2. Chú ý đặc điểm của các phần
Ba phần của cấu trúc văn bản khác nhau về vị trí, vai trò, do đó cách viết có các yêu cầu khác nhau: phần mở đầu và phần kết thúc là nơi trình bày nội dung tổng quát, trong khi phần giữa phải trình bày một cách cụ thể, chi tiết.
a3. Tận dụng kiến thức
Người viết phải tận dụng kiến thức từ sách và cuộc sống để giải thích cụ thể, chi tiết các nội dung trong đề cương.
a4. Đảm bảo cân đối, nhất quán
Khi viết văn bản, cần đảm bảo cân đối giữa các phần, các chủ đề, các ý lớn và các ý nhỏ; đồng thời cũng chú ý tính liên kết và mạch lạc trong toàn văn bản.
a5. Kiểm tra đề cương
Trong quá trình viết văn bản, cần kiểm tra xem văn bản có bám sát đề cương không và có thể điều chỉnh đề cương để phù hợp.
b. Trích dẫn khi viết văn bản
Khi viết văn bản, để khẳng định hoặc phủ nhận, minh họa hoặc so sánh, v.v. một điều gì đó, người viết có thể trích dẫn thông tin từ một nguồn. Có hai loại trích dẫn thường gặp: trích dẫn ý và trích dẫn nguyên văn. Trích dẫn ý là tóm tắt hoặc tóm lược một nội dung để sử dụng trong văn bản. Trích dẫn ý thường bắt đầu bằng dấu hai chấm (:), hoặc các từ báo hiệu (như, cho rằng, tuy là v.v.), nhưng cũng cần nêu rõ nguồn dẫn. Trích dẫn nguyên văn là sử dụng câu hoặc đoạn văn nguyên gốc từ một nguồn. Trích dẫn nguyên văn cần đặt trong dấu ngoặc kép (“””) và nêu rõ nguồn dẫn (tác giả, tên tác phẩm, nhà xuất bản, trang số). Nguồn dẫn có thể được đánh số và đặt trong mặt ngoặc vuông ([]).
2.4. Hoàn thiện văn bản
a. Yêu cầu của bước hoàn thiện văn bản
Hoàn thiện văn bản là quá trình kiểm tra toàn bộ văn bản để phát hiện lỗi và sửa chữa, chỉnh sửa nhằm hoàn thiện văn bản ở mức độ cao nhất. Trong quá trình tạo lập văn bản, người viết có thể mắc phải lỗi nào đó. Lỗi văn bản rất đa dạng và có thể liên quan đến nhiều cấp độ như từ, câu, đoạn văn và văn bản.