TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG VÀ TÍNH CÁCH NGƯỜI VIỆT

0
108

Tầm quan trọng của triết lý âm dương

Triết lý âm dương là kết quả của quá trình trừu tượng hóa ý niệm và ước mơ về sự sinh sản của hoa màu và con người của cư dân nông nghiệp. Từ hai khái niệm gốc “mẹ-cha” và “đất-trời”, con người đã suy ra nhiều cặp đối lập như những thuộc tính của âm dương. Tư duy này đã tạo nên một quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp trong người Đông Nam Á cổ đại, mang tính chất mộc mạc và đơn giản về thế giới.

Người Đông Nam Á và triết lí âm dương

Dựa trên tư duy lưỡng phân lưỡng hợp, người Đông Nam Á đã mở rộng và áp dụng khái niệm âm dương cho các sự vật và khái niệm riêng biệt. Quá trình này đã giúp họ nhận thức về tính đa mặt của âm dương và mối quan hệ chuyển hóa giữa chúng. Những ý niệm đơn giản và chất phác này đã trở thành tiền đề cho người Hán phát triển và hệ thống hóa triết lí âm dương theo cách chúng ta hiểu ngày nay.

Tư duy lưỡng phân lưỡng hợp và văn hóa Việt

Ở người Việt Nam, tư duy lưỡng phân lưỡng hợp được thể hiện rõ rệt thông qua xu hướng hình thành các cặp đôi trong mọi lĩnh vực, từ tư duy đến cách sống và từ di sản cổ xưa đến thói quen hiện đại.

  • Vật tổ của người Việt không chỉ đại diện bởi một loài động vật cụ thể như các dân tộc khác trên thế giới, mà là một cặp đôi trừu tưng Tiên-Rồng. Tư duy âm dương xuất hiện dưới dạng các khái niệm cặp đôi cũng có mặt trong người Mường (chim Ây – cái Ứa), người Tày (Báo Luông – Slao Cái), người Thái (nàng Kè – tạo Cặp)… Đây là những dấu vết của tư duy âm dương xa xưa.
  • Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi theo cặp với sự hài hòa âm dương: ông Đồng – bà Cốt, đồng Cô – đồng Cậu, đồng Đức Ông – đồng Đức Bà… Khi xin âm dương (xin keo), hai đồng tiền phải để một ngửa và một sấp; những viên ngói lợp nhà phải có một viên ngửa và một viên sấp; khi ghép gỗ, phải có một tấm có gờ lồi ra khớp với tấm kia có rãnh lõm vào… Tư duy âm dương khiến người Việt liên kết đất với núi, liên kết cha với mẹ: Công CHA như núi Thái Sơn, Nghĩa MẸ như nước trong nguồn chảy ra.
  • Tổ quốc đối với người Việt Nam là một khối âm dương: ĐẤT NƯỚC. Đất-Nước, Núi-Nước, Non-Nước, Lửa-Nước là những cặp khái niệm thường gặp. Ở Tây Nguyên, hầu hết các địa danh đều bắt đầu bằng “Chư” (núi, ví dụ: Chư Sê) và “krông”, “dak” (sông, nước, ví dụ: KroongPa, Dak B’la). Tại một thời điểm, Tây Nguyên từng tồn tại các vương quốc của Vua Lửa (Pơtao Pui) và Vua Nước (Pơtao la).
  • Ngay cả những khái niệm vay mượn từ nước ngoài khi nhập cư vào Việt Nam cũng được nhân đôi thành các cặp: thần mai mối trong Trung Hoa trở thành ông Tơ – bà Nguyệt trong văn hóa Việt; chỉ có Phật ông ở Ấn Độ, trong văn hóa Việt còn xuất hiện cặp Phật Ông – Phật Bà (người Mường gọi là Bụt đực, Bụt Cái)…

Biểu tượng âm dương và triết lí sống của người Việt

Ngày nay, biểu tượng âm dương (hình 2.1) được đặt ra từ đầu Công nguyên. Tuy nhiên, người Việt vẫn sử dụng biểu tượng vuông-tròn, một biểu tượng âm dương có truyền thống lâu đời hơn. Khi có vuông và tròn, có nghĩa là có âm và dương; khi nói “vuông tròn”, chúng ta nói về sự hoàn thiện. Có những thành ngữ như: Mẹ tròn con vuông, Ba vuông bảy tròn…; Lạy trời cho đặng vuông tròn, Trăm năm cho trọn lòng son với chàng!; Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, có câu: Trăm năm tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch song; Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?

Đáng chú ý là gần đây đã phát hiện rằng ở mặt trống đồng Yên Bồng (Lạc Thủy, Hòa Bình) và trống Thôn Mống (Nho Quan, Ninh Bình) có các hình biểu tượng âm dương vuông-tròn và tròn-vuông nằm chồng lấn lên nhau. Các đồng tiền cổ Việt Nam từ các thời đại khác nhau thường có lỗ vuông ở giữa, đây là dấu vết truyền thống của biểu tượng âm dương này. Thứ mà chúng ta nhận thấy từ những dấu vết này là cách giải thích quan niệm “Trời tròn đất vuông” theo cách dân gian chỉ là một cách diễn đạt ngây thơ: trời tròn vì trời là dương, biểu tượng của dương là tròn; đất vuông vì đất là âm, biểu tượng của âm là vuông.

Triết lí âm dương và cuộc sống của người Việt

Người dân Việt Nam nhận thức rõ về hai quy luật của triết lí âm dương. Những quan niệm dân gian như “Trong rủi có may, trong dở có hay, trong họa có phúc” hoặc “Chim sa, cá nhảy chớ mừng, Nhện sa, xà đón xin đừng có lo…” thể hiện rõ quy luật “trong dương có âm” và “trong âm có dương”. Nhận thức dân gian về quan hệ nhân quả như “Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã đau; Yêu nhau lắm, cắn nhau đau; Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ; Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét lá đa, Bao giờ dân nổi can qua, Con vua thất thế lại ra quét chùa…” thể hiện quy luật “âm dương chuyển hóa”.

Chính nhờ triết lí quân bình âm dương này mà người Việt Nam có khả năng thích nghi tốt với mọi hoàn cảnh và không bao giờ chán nản dù đối mặt với khó khăn bao nhiêu. Người Việt Nam là dân tộc sống với tinh thần lạc quan: thời trẻ khổ thì tin rằng về già sẽ sung sướng, suốt đời khổ khó thì tin rằng đời con cháu sẽ sung túc (Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời…).

Artical edited by: Dnulib