Vi phạm hình sự là gì?
Về lý thuyết, vi phạm hình sự là hành vi xâm phạm vào các quan hệ pháp luật được Luật Hình sự bảo vệ. Vi phạm hình sự xảy ra khi một cá nhân hoặc một tổ chức thực hiện hoặc không thực hiện các hành vi quy định trong Bộ luật Hình sự.
Về mặt pháp lý, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017 không đưa ra định nghĩa trực tiếp về vi phạm hình sự, nhưng qua khái niệm về tội phạm, ta có thể hiểu được hành vi nào được coi là vi phạm hình sự.
Theo Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi và bổ sung năm 2017: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc tổ chức thực hiện cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quyền lợi của Tổ quốc, gây thiệt hại đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội, và các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, gây xâm phạm đến quyền con người và những lĩnh vực khác của pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.”
Từ khái niệm này, ta có thể thấy tội phạm có các đặc điểm sau:
- Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
- Hành vi đó phải được quy định trong Bộ luật Hình sự.
- Chủ thể của tội phạm phải có năng lực hành vi dân sự.
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải có lỗi.
- Các quan hệ xã hội bị xâm phạm phải được bảo vệ bởi Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên, không phải hành vi vi phạm pháp luật hình sự nào cũng được coi là tội phạm và bị xử lý theo các chế tài được quy định tại Bộ luật Hình sự. Vì vậy, khi xác định tội phạm, chúng ta cần xem xét tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Một số hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm không đáng kể sẽ không bị xử lý theo luật hình sự, mà sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác, theo các quy định pháp luật khác.
Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Trước khi tìm hiểu chi tiết về các căn cứ khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, chúng ta cần hiểu khái niệm “khởi tố”. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên trong quy trình tố tụng hình sự. Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tiếp nhận, xác minh thông tin để xem xét việc có hay không có dấu hiệu tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự cũng là cơ sở để xác định kết thúc hoạt động tố tụng hình sự hoặc chuyển sang các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm.” Để xác định dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền cần dựa trên các căn cứ sau đây:
-
Tố giác từ cá nhân về tội phạm khi có hành vi có dấu hiệu tội phạm được báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền.
-
Tin báo từ cơ quan, tổ chức, cá nhân về vụ việc có dấu hiệu tội phạm được báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền hoặc thông qua phương tiện thông tin công cộng.
-
Kiến nghị khởi tố từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan gửi cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền để xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
-
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm.
-
Người phạm tội tự thú, tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi hành vi phạm tội được phát hiện.
Ngoài ra, đối với một số loại tội phạm theo quy định của pháp luật, vụ án hình sự có thể được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại.
Như vậy, các căn cứ khởi tố vụ án hình sự được đưa ra nhằm đảm bảo quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm diễn ra nhanh chóng, đồng thời tôn trọng trách nhiệm của cả xã hội trong công cuộc này. Tuy nhiên, để khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện các bước cơ bản như tiếp nhận thông tin về dấu hiệu tội phạm, tiến hành các hoạt động điều tra để kiểm tra, xác minh dấu hiệu tội phạm, và đưa ra quyết định kết luận về việc có hay không có dấu hiệu tội phạm. Điều này nhằm tránh trường hợp oan sai và tránh biến các vụ án dân sự, kinh doanh, thương mại thành vụ án hình sự không cần thiết.
Được chỉnh sửa bởi Dnulib