Học tài thi phận là gì – Giải thích chi tiết ý nghĩa câu nói Học tài thi phận

0
49
Rate this post

Ý nghĩa câu nói học tài thi phận là gì

Giải thích câu nói học tài thi phận là gì

Học tài thi phận có nghĩa là trong quá trình học, dù bạn học có giỏi hay tốt đi chăng nữa, khi đi thi cũng không chắc chắn rằng bạn sẽ đạt điểm cao. Ngay cả khi bạn làm bài tốt và đúng đủ, cũng không chắc chắn rằng bạn sẽ đỗ. Bởi kết quả thi không chỉ phụ thuộc vào kiến thức và quá trình học tập mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như may mắn, môi trường thi, đề thi, vv.

Ý nghĩa học tài thi phận là gì

Lịch sử khoa cử Nho học Việt Nam có những sĩ tử tuổi còn rất trẻ mà đạt học vị tiến sĩ vẻ vang. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp đáng tiếc, chỉ vì một sơ suất nhỏ mà không đỗ, hoặc bị cho là gian lận trong thi cử mà bị trượt. Từ khi tổ chức kỳ thi đầu tiên vào năm Ất Mão (1075) dưới triều Lý Nhân Tông, quy chế thi cử ngày càng được xây dựng quy củ và hoàn thiện hơn. Đến đời Lê Thánh Tông, để đảm bảo sự chặt chẽ và chất lượng tuyển chọn nhân tài, vào tháng 4 năm Nhâm Ngọ (1462), vua đã đưa ra quy định “Bảo kết hương thí”.

Đây là “bản cam kết” mà các xã phải tuân thủ về tư cách và đạo đức của sĩ tử là con em trong xã. Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, trước khi diễn ra kỳ thi, các sĩ tử có ý định tham gia ứng thí “phải đến nhà giám hay đạo sở tại, khai tên và căn cước, đợi thi hương; nếu đỗ thì gửi danh sách đến viện Lễ nghi, tới giữa tháng giêng năm sau tham gia thi hội. Các quan bản và xã trưởng xã phải lập giấy cam kết rằng người đó thực sự có đức hạnh mới được ghi vào sổ đi thi. Người nào không hiếu, không mục, không nghĩa, phạm án cướp hay phản nghịch thì dù có học vấn, giỏi văn bài cũng không được đi thi”.

Quy định về lệ bảo kết đã được thực hiện từ đó cho đến cuối triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở nước ta. Kỳ thi cử thời Nguyễn phát triển nhất vào thời vua Minh Mạng, các quy trình tuyển chọn và thi cử đều được cải cách, nhưng lệ bảo kết vẫn được áp dụng. Trong kỳ thi hương đầu tiên của triều đại này tổ chức vào năm Đinh Mão (1807) dưới triều Gia Long, đã định lệ: “Trước kỳ thi, lý trưởng sở tại phải ghi tên học sinh đi thi vào sổ. Những người không hiếu, không mục, phạm án cướp hay phản nghịch đều không được đi thi”.

Một điều thú vị là không có quy định cụ thể về độ tuổi của các sĩ tử, vì vậy có những kỳ thi có thí sinh trên 70 tuổi, và cũng có những thí sinh trẻ tuổi. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, trong phần Khoa mục chí ghi điều lệ thi hương năm Mậu Ngọ (1678) dưới triều Lê Hy Tông như sau: “Người chưa tròn 18 tuổi cũng được đi thi để mở rộng đường tuyển chọn người tài giỏi, nhưng phải ghi danh lên quan huyện, quan châu để khảo xét”.

Thực tế, trước đó cũng chưa có hạn chế về độ tuổi của sĩ tử, nên có những cậu bé như Nguyễn Hiền chỉ mới 13 tuổi đỗ trạng nguyên, Đặng Ma La 14 tuổi cùng đỗ khoa thi năm Đinh Mùi (1247), Nguyễn Trung Ngạn 16 tuổi đỗ hoàng giáp khoa Giáp Thìn (1304)…

Trong kỳ thi năm Ất Mùi (1835) dưới triều vua Minh Mạng, có một thí sinh mới 13 tuổi đã đỗ tiến sĩ nhưng không được công nhận chỉ vì lỗi của chức dịch địa phương. Tuy nhiên, vua Minh Mạng coi đây là hành vi gian lận trong thi cử nên cậu bé thông minh đó đã bị trượt oan.

Trong sách “Minh Mạng chính yếu”, có ghi chép sơ lược về sự việc này như sau: Kỳ thi Điện thí đó có người đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ tên là Lê Chân Niên, tuổi còn ít, hoàng đế hỏi lại. Chân thưa rằng: Chân mới 13 tuổi, nhưng danh sách lại ghi 19 tuổi vì lý trưởng đã khai lầm và không cài đặt lại. Nghe xong, hoàng đế nói rằng:

Kỳ thi là bước đầu để tiến lên, cần có danh thành tín làm nền tảng. Nếu giấu tuổi như vậy, đã tự đối mặt và sau này muốn làm quan, làm việc đứng đắn, công bằng thì làm sao giữ được công bình, trung chính. Vì vậy, ta không thể công nhận đỗ. Hãy ghi đúng tuổi và cài đặt lại.

Sau đó, vua đã thông báo cho bộ Lễ truyền dụ: Từ nay về sau, họ tên, tuổi và quê quán của những người ứng thí phải được ghi chính xác. Nếu người nào đã bị lý trưởng khai lầm, phải nhận quyển về và thận trọng xin cài đặt lại. Nếu cứ giấu diếm và im lặng, khi biết sẽ có tội.

Tuyệt vời là từ đó, sách sử không còn đề cập đến cậu bé Lê Chân Niên nữa. Đáng tiếc là vì Minh Mạng quá nghiêm khắc, khắt khe, một tài năng đã bị bỏ qua và không được tận dụng triệt để.

Lời bàn về học tài thi phận

Dưới thời phong kiến, khoa cử là một trong những hình thức cơ bản để tuyển dụng nhân tài và phục vụ đất nước. Các kỳ thi Nho học ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông và kết thúc vào năm 1919 dưới triều vua Khải Định, kéo dài trong 845 năm. Trong suốt thời gian đó, có nhiều loại kỳ thi khác nhau và mỗi triều đại lại có những đặc điểm riêng.

Như ai cũng biết, quy chế thi cử thời xưa thường rất nghiêm ngặt, và vì vậy, con đường cử nghiệp không phải lúc nào cũng dễ dàng đối với nhiều học trò. Thậm chí có những người có tài năng thật sự nhưng chỉ vì phạm một sơ suất nhỏ (như không kiêng tên của hoàng tộc), họ đã bị trượt. Chính quy chế khắc nghiệt đó đã khiến cho không ít người có tài năng bị bỏ qua mà không được công nhận xứng đáng. Vì thế, câu nói “học tài thi phận” đã ra đời và phổ biến trong dân gian.

Tiếc rằng ngày nay có không ít người học hành chùn chân, bữa học, bữa không, nhưng khi đi thi bị trượt lại đổ lỗi cho “học tài thi phận”. Câu nói này có thể đúng trong thời xưa, nhưng ngày nay không ai tin vào điều đó, trừ khi gặp phải những sự cố không thể ngờ tới vào ngày thi.

Với những ai học hành tử tế, việc chỉ trích “học tài thi phận” sẽ làm họ cảm thấy khó chịu, bởi vì như vậy, người ta đánh đồng cả những người có kết quả thi cao và thấp. Tuy nhiên, trong thực tế, người ta chỉ có thể hoàn toàn bác bỏ quan điểm “học tài thi phận” khi có một kỳ thi công bằng, công bằng với tất cả mọi người.

Sửa đổi bởi: dnulib.edu.vn