Bánh tro, bánh gio, bánh ú tro hay bánh nẳng…bạn có biết?

0
49
Rate this post

Bánh tro, bánh gio, bánh ú tro hay bánh nẳng là những loại bánh truyền thống của Việt Nam, được làm từ gạo nếp ngâm qua nước tro và gói lá đem luộc chín trong nồi. Những chiếc bánh này rất phổ biến trong ẩm thực truyền thống của đất nước chúng ta.

Bánh tro, bánh gio, bánh nẳng – Ẩn chứa câu chuyện về thành phần

Tên gọi “bánh tro” (hay bánh gio) và “bánh nẳng” xuất phát từ thành phần làm bánh là nước tro (hay nước nẳng), được pha chế từ tro than thu được sau khi đốt cháy một số loại thảo mộc và dược liệu. Còn tên gọi “bánh ú tro” còn gợi tả hình dạng của bánh, vì thường được gói theo hình ú, vồm cao như bàn tay khi nắm.

Bánh tro được làm từ hai nguyên liệu chính là gạo nếp và nước tro, truyền thống thường không có nhân bên trong. Thành phẩm của bánh tro chỉ là một khối bột trong, thường dùng chấm với mật để ăn. Bánh được gói bằng lá tre, lá dong hoặc lá chuối. Còn lạt buộc bánh được làm từ bẹ thân cây chuối khô tước sợi hoặc ống giang chẻ sợi.

Lựa chọn nguyên liệu và nước tro

Gạo nếp được chọn để làm bánh tro thường là gạo nếp cái hoa vàng hoặc nếp nhung để hạt gạo không bị sượng cứng.

Nước tro làm nên hương vị và màu sắc đặc trưng của bánh tro. Nước tro được tạo ra bằng cách đánh nước vôi với tro.

Người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ thường sử dụng cây mận, cây đu đủ rừng, lá trầu không, vỏ chuối tiêu hoặc lá mua và vôi để làm nước tro. Còn người Kinh thường dùng vỏ quả sở, cây rừng, măng khô và vôi.

Quy trình làm bánh tro

Các nguyên liệu sau khi được phơi khô và đốt thành tro, được rây cho mịn và hòa với nước vôi. Tiếp theo, lấy nước trong từ hỗn hợp này. Để kiểm tra xem nước đã đạt đủ, thường sử dụng lá trầu không nhúng vào khoảng 15-20 giây, sau đó vớt ra và bỏ vào miệng nhai. Nếu nước bọt đỏ như nước quyết trầu thì chứng tỏ nước đã đạt.

Hiện nay, do không có điều kiện đốt tro, một số nơi đã sử dụng nước tro Tàu (lye water) thay thế. Tuy nhiên, không nên lạm dụng hóa chất này vì có thể gây ngộ độc.

Sau khi có nước tro, gạo nếp được làm sạch và ngâm trong thau chứa nước tro, thường ngâm từ 5-6 tiếng hoặc qua đêm. Gạo được coi là đã ngâm đủ khi hạt gạo ở hai đầu ngón tay bị nát mịn. Lưu ý không nên ngâm gạo quá một ngày vì sẽ làm nếp có mùi tro quá nồng, ăn không ngon.

Gạo sau khi ngâm xong được rửa sạch bằng nước mưa hoặc nước giếng khơi, để ráo trước khi tiến hành gói bánh.

Sau khi có gạo, tiến hành gói bánh bằng lá tre hoặc lá khác. Gói bánh bằng cách xếp lá và đặt gạo lên trên, gấp lá thật kín để tạo thành khối hình tam giác, sau đó dùng lạt buộc lại. Sau đó, xâu 10 bánh lại với lạt. Một số nơi gói bánh có hình dạng thuôn dài, nhỏ gọn, khi ăn thì cắt ra để thưởng thức.

Bánh được luộc bằng cách cho bánh vào nồi và đổ nước ngập bánh. Thời gian nấu không cần lâu, tùy thuộc vào kích thước bánh mà nấu từ 1 tiếng đến 3, 4 tiếng. Bánh chín xong, vớt ra và nhúng vào chậu nước lạnh để bánh mau nguội và giữ màu xanh lá. Cuối cùng, treo bánh lên cao để ráo nước.

Quá trình chuẩn bị nguyên liệu, xoong nồi luộc và gói bánh cần được tiến hành mà không dính dầu mỡ, để đảm bảo bánh không bị nhừ.

Bánh tro sau khi chín, khi mở ra sẽ là một khối bột trong, mịn chắc như một khối thạch, không hề có vị chua của tro. Bánh có vị nhạt, mềm mại và có màu sắc từ nhạt đến nâu sẫm, phụ thuộc vào loại nước tro sử dụng. Bánh tro là món ăn mát lành, không gây ngấy. Khi ăn, có thể chấm với đường kính, đường phên, mật ong, nhưng chấm với mật mía thêm một chút gừng băm vụn là cách thưởng thức phổ biến và ngon nhất.

Bánh tro – Đặc sản ẩm thực Việt Nam

Ở Việt Nam, bánh tro làng Đắc Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội nổi tiếng với loại bánh tro này. Ngoài ra, còn có bánh gio Tây Đình, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc, bánh nẳng Chợ Tràng, Lập Thạch, Vĩnh Phúc, bánh nẳng Làng Dòng, Xuân Lũng, Bắc Ninh và bánh nẳng của cộng đồng người Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ. Miền Trung cũng có bánh tro Quảng Nam, bánh tro Yên Lãng, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Miền Nam có bánh ú tro Phú Yên, Bình Định.

Tác dụng của bánh tro đối với sức khỏe

Theo Đông y, bánh tro có vị nhạt, tính mát và dễ tiêu, thích hợp nhất đối với trường hợp già yếu, trẻ em và những người có chứng bệnh nóng sốt âm ỉ (âm hư), như vào mùa hè mà cực điểm là đầu tháng năm Đoan ngọ (đoan dương – chính dương) thường gây ôn dịch thương âm.

Vào dịp Tết Đoan ngọ, bánh tro càng phát huy tác dụng vì mấy ngày này người ta thường tiếp xúc với nhiều thức ăn nhiệt, dầu mỡ như rượu nếp, xoài, mít… Bánh tro không chỉ giúp làm sạch cơ thể mà còn giúp thanh nhiệt, lợi tiểu và thải độc. Ngoài ra, bánh tro còn có tác dụng phòng và hỗ trợ chữa một số bệnh như tăng huyết áp, bệnh gút, sỏi thận và nhiều bệnh khác.

Đó chính là lý do tại sao bánh tro luôn có mặt trong mâm cỗ ngày Tết Đoan ngọ của người Việt.

Banh-Tro

Được sự hỗ trợ bởi dnulib.edu.vn