Cách xưng hô trong gia đình Việt Nam

0
59
Rate this post

Cách gọi tên trong gia đình Việt Nam

Người ta thường nghĩ việc gọi tên trong tiếng Việt rất phức tạp và phiền phức trong giao tiếp. Có phải việc nói “you, me” hay “toi, moi” như trong tiếng Anh hay Pháp dễ dàng hơn không? Tuy nhiên, thực tế việc gọi tên trong tiếng Việt không phức tạp và không phiền phức. Nó rất đa dạng, rõ ràng, tuân thủ trật tự và rất lịch sự. Cách gọi tên trong tiếng Việt không gây phiền phức. Nếu có sự phiền phức, thì đó chỉ là do người sử dụng không biết cách sử dụng mà thôi.

Cách gọi tên trong tiếng Việt phản ánh một văn hóa lâu đời về gia đình và giao tiếp xã hội. Tôn trọng và tuân thủ trật tự là cách để phân biệt giữa người dân có văn hóa lâu đời và người dân mới phát triển, giữa con người và động vật.

Để hiểu rõ cách gọi tên trong tiếng Việt, chúng ta hãy cùng nhau xem xét lại phong tục gọi tên ở Việt Nam. Trong gia đình và họ hàng, chúng ta có cách gọi tên riêng cho mỗi người. Cũng như trong xã hội, chúng ta có cách gọi tên đặc biệt cho từng người mà chúng ta quen biết. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày những điều liên quan đến cách gọi tên trong gia đình.

I. Cách gọi tên theo mối quan hệ gia đình

Người mà chúng ta sinh ra gọi là cha mẹ. Cha mẹ của cha mẹ, cô, dì, chú, và bác của chúng ta được gọi là ông bà. Cha mẹ của ông bà được gọi là cụ. Cha mẹ của cụ được gọi là kỵ. Các ông bà đời trước được gọi là tổ tiên. Cha mẹ sinh ra chúng ta. Những người con này là anh chị em ruột của nhau, bao gồm anh trai, chị gái, em trai và em gái.

Người con trai đầu lòng của cha mẹ được gọi là anh cả (ở miền Bắc và Trung) hoặc anh hai (ở miền Nam). Anh hai cũng có nghĩa là tiền trong câu: “Trong túi không có anh hai thì không làm gì được.” Người con gái đầu lòng của cha mẹ được gọi là chị cả (ở miền Bắc và Trung) hoặc chị hai (ở miền Nam). Từ chị cả cũng có nghĩa là vợ cả trong câu ca dao sau: “Thấy anh, em cũng muốn chào, / Sợ rằng chị cả giắt dao trong mình.” Người con trai thứ hai được gọi là anh thứ (ở miền Bắc và Trung) hoặc anh ba (ở miền Nam). Từ anh ba cũng được dùng để gọi một người đàn ông con trai nào đó trong trường hợp của câu ca dao sau: “Anh Ba kia hỡi anh Ba, / Đầu đội nón dứa tay bưng ba cơi trầu. / Trầu này em chẳng ăn đâu, / Để thương để nhớ để sầu anh Ba, / Để em bác mẹ gả chồng xa, / Thà rằng lấy quách anh Ba cho gần!” Từ anh Ba cũng được dùng để chỉ người đàn ông Hoa kiều.

Người con trai thứ bảy trong gia đình được gọi là anh bảy (ở miền Bắc). Từ anh bảy cũng được dùng để gọi người Ấn Độ hoặc người Nam Dương. Khi ta lấy vợ hoặc chồng và sinh ra các con (con trai và con gái), con của các con ta gọi là cháu (sẽ chi tiết hơn ở phần sau), con của cháu ta gọi là chắt, con của chắt ta gọi là chút và con của chút ta gọi là chít. Vợ của các con trai ta gọi là con dâu. Chồng của các con gái ta gọi là con rể. Anh chị em của cha mẹ ta bao gồm chú, bác, cô, dì, cậu, mợ và dượng (sẽ chi tiết hơn ở mục sau).

II. Cách xưng hô trong gia đình

Thứ bậc 10 đời trong gia đình gồm: tổ tiên, kỵ, cụ, ông bà, cha mẹ, con, cháu, chắt, chút và chít. Con của chúng ta gọi chúng ta là cha mẹ. Con của các con chúng ta gọi chúng ta là ông bà. Con của con gái chúng ta gọi chúng ta là ông bà ngoại, ông ngoại, bà ngoại hoặc gọi tắt là ngoại. Con của con trai chúng ta gọi chúng ta là ông bà nội, ông nội, bà nội hoặc gọi tắt là nội. Chắt của chúng ta gọi chúng ta là cụ. Chút của chúng ta gọi chúng ta là kỵ. Và chít của chúng ta gọi chúng ta là tổ tiên.

Danh xưng của hai gia đình có con cái lấy nhau gồm thông gia, thân gia hoặc sui gia. Khi xưng hô với nhau hoặc với bạn bè, ta có thể dùng các cách xưng hô sau: ông bà thông gia, ông bà thân gia, ông thân, bà thân, ông bà sui gia, ông sui và bà sui.

1. Với Cha Mẹ:

Khi nói chuyện với bạn bè hoặc khi xưng hô với cha mẹ, ta có thể sử dụng các từ: bố mẹ, cha mẹ, ba má, ba me, cậu mợ, thầy me, thầy bu, thân sinh, song thân, các cụ chúng tôi, ông bà nội các cháu, và ông bà ngoại các cháu, v.v.

Tiếng xưng hô với mẹ có thể là: má, mẹ, me, mệ, mợ, bu, u, vú, bầm hoặc đẻ. Tiếng xưng hô với cha có thể là: bố, ba, thầy, cha, cậu hoặc tía. Thường thì người ta thường gọi mẹ nhiều hơn cha. Điều này cho thấy mẹ gần gũi với con nhiều hơn bố. Do đó, mối quan hệ giữa con và mẹ đầm ấm hơn và có nhiều từ để xưng hô hơn. Vợ của các con trai ta gọi là con dâu. Chồng của các con gái ta gọi là con rể. Anh chị em của cha mẹ ta bao gồm chú, bác, cô, dì, cậu, mợ và dượng.

2. Với Anh Chị Em của Cha Mẹ và Ông Bà:

Anh của cha mẹ ta gọi là bác, em trai của cha ta gọi là chú, chị của cha ta gọi là bác gái. Em gái của cha ta gọi là cô hoặc o. Ở một số nơi, chị của cha cũng được gọi là cô hoặc o.

Anh của mẹ ta gọi là bác hoặc cậu, em trai của mẹ ta gọi là cậu, chị của mẹ ta gọi là già hoặc bác gái và em gái của mẹ ta gọi là dì. Có những gia đình yêu cầu con cái gọi cậu và dì bằng chú và cô để có sự thân thiết giống nhau giữa hai gia đình. Điều này có nghĩa là bất kỳ bên nào cũng là bên nội.

Vợ của bác (anh của cha hoặc mẹ) ta gọi là bác gái, vợ của chú ta gọi là thím và chồng của cô hoặc dì ta gọi là chú hoặc chú dượng hoặc dượng. Chồng của bác gái hoặc già ta gọi là bác hoặc bác dượng, và vợ của dượng ta gọi là bác hoặc bác dượng. Vợ của các con trai ta gọi là con dâu. Chồng của các con gái ta gọi là con rể. Anh chị em của cha mẹ ta bao gồm chú, bác, cô, dì, cậu, mợ và dượng.

3. Với Anh Chị Em:

Anh của vợ hoặc anh của chồng ta gọi là anh hoặc bác, và khi nói chuyện với người khác ta dùng ông anh nhà tôi, anh của nhà tôi, anh vợ tôi hoặc anh chồng tôi. Tiếng anh chồng cũng được sử dụng để gọi chồng của một người phụ nữ trong nghĩa của câu: Anh chồng thì đi vắng chỉ có chị vợ ở nhà mà thôi. Chị của chồng hoặc chị của vợ ta gọi là chị hoặc bác, và khi nói chuyện ta dùng chị chồng, chị vợ, bà chị của nhà tôi, v.v. Em trai của chồng ta gọi là em hoặc chú.

Em gái của chồng ta gọi là em, cô hoặc dì. Các từ bác, chú, cô hoặc dì chỉ dùng khi xưng hô với anh chị và chỉ con của mình, có nghĩa là anh, chị, em của mình.

  • Các từ xưng hô về chị em bao gồm: Chị em gái, chị em ruột, chị gái hoặc chị ruột, chị họ, chị em chú bác, chị em con chú con bác, chị em thúc bá, chị em bạn dì, chị em đôi con dì con già. Chị em bạn dâu, chị dâu hay chị ruột, chị em bạn rể hay chị em cột chèo hay chị dâu. Chị em bạn dì, chị em đôi con dì con già để chỉ các con trai và con gái của em trai và anh bố mình, trong đó người con gái là chị. Chị em bạn dâu, chị em đôi con dâu con già để chỉ con trai và con gái của em gái bố và em trai mẹ, trong đó người con gái là chị. Chị em bạn rể hay chị em cột chèo để chỉ các ông chồng của chị vợ hay em vợ. Anh rể là chồng của chị mình. Tất cả những người con của anh và chị của cha đều là anh và chị của ta (anh chị họ nội). Các người con của anh và chị của mẹ cũng là anh và chị của ta (anh chị họ ngoại).
  • Các từ xưng hô về anh chị em bao gồm: Anh chị là tiếng các em gọi anh chị hoặc cặp vợ chồng anh chị, tiếng cặp vợ chồng tự xưng với các em của họ, tiếng gọi cặp vợ chồng của bạn mình, tiếng cha mẹ dùng để gọi vợ chồng con trai hay con gái mình và tiếng dùng để gọi những kẻ ăn chơi giang hồ, cờ bạc trong nghĩa của từ “dân anh chị.” Anh chị em là tiếng người ta dùng để gọi các con trong gia đình như trong câu “Anh chị em nhà ấy có hiếu.” Tiếng “anh chị em” còn dùng để gọi chung đàn ông, đàn bà, con trai, con gái trong nghĩa của câu “Hỡi các anh chị em nghe đây!” Anh chị em bạn dì hay anh chị em đôi con dì con già để chỉ các con trai và con gái của chị và em gái mẹ trong đó người con trai là chị. Anh chị em bạn rể hay anh chị em cột chèo để chỉ các ông chồng của chị vợ hay em vợ. Anh rể là chồng của chị mình. Tất cả những người con của anh và chị của cha đều là anh và chị của ta (anh chị họ nội). Các người con của anh và chị của mẹ cũng là anh và chị của ta (anh chị họ ngoại).
  • Các từ xưng hô về em gái bao gồm: Em là từ chỉ các người con do cha mẹ sinh ra sau mình, bao gồm em trai và em gái và cũng là từ gọi các người con của cô, dì và chú của mình. Em trai gọi là em, chú, còn em gái gọi là cô hoặc o. Các từ bác, chú, cô hoặc dì chỉ dùng khi xưng hô với anh chị và chỉ con của mình, có nghĩa là anh, chị, em của mình.

4. Với Vợ Chồng:

Tiếng xưng hô với vợ gồm có: em, cưng, mình, bu nó, má, má mày, má nó, má thằng cu, mẹ, mẹ nó, mẹ đĩ, nhà, bà, bà xã, bà nó, ấy, mợ, mợ nó, đằng ấy, v.v.

Tiếng gọi vợ trong khi nói chuyện với người khác gồm có: nhà tôi, bà nhà tôi, má tụi nhỏ, má sắp nhỏ, má bày trẻ, tiện nội, nội tướng tôi, bà xã, bà xã tôi, và vợ tôi, v.v. Tiếng xưng hô với chồng gồm có: anh, cưng, anh nó, ba, ba nó, bố, bố nó, bố mày, bố thằng cu, đằng ấy, ông xã, cậu, cậu nó, ông, ông nó, cụ, ấy, mình, v.v.

Tiếng gọi chồng trong khi nói chuyện với người khác gồm: nhà tôi, ông nhà tôi, ba tụi nhỏ, ba sắp nhỏ, ba bày nhỏ, phu quân tôi, ông xã, ông xã tôi, chồng tôi, trượng phu tôi, anh ấy, v.v.

Vợ chồng người Việt rất thân thiết, họ yêu nhau với tình cảm chân thành và đối xử lịch sự và tôn kính. Những cặp vợ chồng có giáo dục không bao giờ gọi nhau bằng “mày” và “xưng tao”. Họ tìm những từ ngữ ôn hòa, đầy tình cảm và yêu thương để gọi nhau. Vì vậy, cách gọi tên giữa vợ chồng người Việt có nhiều đa dạng hơn so với tiếng gọi tên của vợ chồng người Tây. Những cặp vợ chồng có giáo dục không bao giờ chửi thề hoặc nói tục với nhau, đặc biệt là trước mặt bạn bè.

5. Với Con Cháu:

Con trai đầu lòng được gọi là con trai trưởng hoặc con trai trưởng nam (trưởng hoặc cầm trưởng). Vợ của con trai được gọi là con dâu. Vợ con trai trưởng nam là con dâu trưởng. Con gái đầu lòng được gọi là trưởng nữ. Chồng của con gái là con rể. Chồng của con gái đầu lòng là con rể trưởng. Tất cả con trai hoặc con gái kế tiếp được gọi là thứ nam hoặc thứ nữ. Người con được sinh ra trước cùng được gọi là con cả hoặc con đầu lòng. Con trai hoặc con gái cuối cùng của gia đình được gọi là con út, con út nam hoặc con út n