Cổng Làng Đại Từ Phường Đại Kim – Quận Hoàng Mai

0
56
Rate this post

Cổng Làng Đại Từ Nghĩa Dân – Cổng Tiền

Ở hai đầu làng Đại Từ, ta có hai cổng làng đẹp mắt. Cổng láng đầu làng được xây dựng với kiến trúc thượng gia hạ môn, viết chữ Hán và Việt. Hai công trình này được xây dựng để kỷ niệm 45 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Hợp tác xã Đại Từ (12/01/1958-12/01/2003).

Làng Đại Từ và Ông Báo Ninh

Làng Đại Từ tự hào với chữ Đại Từ Nghĩa Dân, một danh hiệu được triều đình trao tặng nhờ công đức chia sẻ khó khăn với xã hội. Khi xây dựng cổng làng vào năm 2003, một đôi câu đối được viết:

“Chính nghĩa tự ngàn xưa với chữ vua ban càng rực sáng”

“Đại Từ thời đổi mới theo lời Bác dạy mãi vươn cao”

Ý nghĩa của chữ “Đại Từ Nghĩa Dân”

Vào năm 2003, để kỷ niệm 45 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đại Từ, làng Đại Từ đã hoàn thành xây dựng hai cổng làng đồ sộ ở hai đầu làng (phía ra quốc lộ 1) và cuối làng (phía ra khu biệt thự Linh Đàm). Đây là hai cổng có độ cao, độ rộng phù hợp với thiên hướng đô thị hóa hiện tại. Mỗi cổng lại có những điểm khác nhau. Cổng ở đầu làng được thiết kế theo kiểu “thượng gia hạ môn” rõ ràng. Bên ngoài cổng có chữ “Làng Đại Từ” và những câu đối đã được dịch ra tiếng Việt:

“Chính nghĩa tụ ngàn xưa với chữ vua ban càng rực sáng”

“Đại Từ thời đổi mới theo lời Bác dạy mãi vươn cao”

Ở phía sau cổng làng là chữ “Đại Từ Nghĩa Dân” và những câu đối chữ Nôm.

Ở cuối làng, trên đường thống với khu Linh Đàm, cũng có một cổng láng với mái giá, không có phân chia thượng gia hạ môn. Câu chuyện khó hiểu đối với người mới đến Đại Từ là tại sao lại có chữ “Đại Từ Nghĩa Dân” và vua nào đã trao tặng chữ này. Tôi đã hỏi cụ thú từ đình Đại Từ, cụ chỉ vào chữ đại tự trên và nói: “Chúng tôi chỉ biết ghi lại, chưa biết vua nào đã ban.” Có một câu chuyện kể rằng xưa kia ở đầu làng Đại Từ có một cây cầu tiên, là nơi các tiên tụ tập, không biết vì lý do gì mà các cô tiên đã để lại hai bầu vú. Từ đó, người dân Đại Từ thường chia sẻ sữa của mình cho con nuôi. Điều thú vị là người ta luôn chăm sóc con nuôi một cách tận tình. Có thể con của mình đói, nhưng khi cho con người bú, phải đảm bảo con người no nê.

Chính tình cảm đó đã khiến người dân Đại Từ nuôi lớn rất nhiều con nuôi. Đối với những gia đình tại kinh đô Thăng Long xưa, nhà nào có con nuôi khó khăn, đều tới Đại Từ để xin sữa, xin nuôi hộ. Cháu bé sẽ khỏe mạnh lên. Tập tục nuôi con nuôi đã tạo ra nhiều người mẹ nuôi hiền tháo, được vua ban danh hiệu “Đại Từ Nghĩa Dân” (dân làng Đại Từ có nghĩa).

Có một câu chuyện giai thoại khác từ năm 1958, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm, mọi người sợ biển vua ban sẽ làm cho làng trở thành một nơi phong kiến và đề cử bỏ đi. Nhưng chính Chủ tịch Hồ đã yêu cầu người dân giữ lại biển để tôn trọng ý nghĩa của người dân Đại Từ. Ngày nay, khi xây dựng lại cổng làng, cụ Vũ Tuấn Sán là người đặt ra câu đối này, và cụ Vũ Khiêu là người thẩm định để làng viết lên giữa cổng.

Tín ngưỡng và tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Giống như các làng vùng Hoàng Liệt xưa, Đại Từ thờ Bảo Linh Thượng đẳng tôn thần và hàng năm có lễ hội cùng các thôn xã trong vùng để tưởng nhớ ơn mưa ngày xưa.

Tại Nhà văn hoá phường Đại Kim, có một bức tượng gỗ quý do nhà điêu khắc Vũ Tiến tạo ra. Bức tượng cao gần 3 mét miêu tả chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Hợp tác xã Đại Từ vào ngày 12/10/1958. Bức tượng này được tạo ra vào năm 1983. Một đôi câu đối truyền khẩu trong dân gian về sự kiện Chủ tịch Hồ thăm quê hương:

“Bác mừng Đại Từ người trước rước người sau xây quê hương giàu đẹp”

“Dân tạc tượng ghi ơn lãnh tụ khó khăn nào cũng vượt, tin đối mới thành công”

Với sự chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người dân Đại Từ không chỉ tiến bộ trong cách mạng, mà còn lòng tôn kính thủy thần vì nghĩa lớn cứu dân bị nạn. Họ thực hiện lòng nguyện của người thầy dù có biết rằng mình sẽ hy sinh. Tại đình Đại Từ, có bản “Văn sự tích đức thánh Bảo Linh” do ông Lê Kim Duyệt, người làng Đại Từ viết và đã truyền khẩu trong tông Hoàng Liệt.

Có thể bạn quan tâm: Cổng Làng Ngõ Đa Lộc (Phường Dịch Vọng Hậu- Quận Cầu Giấy)

Đọc thêm về Đại Từ và các điểm tham quan tại Dnulib.