Chị của vợ gọi là gì

0
35
Rate this post

Xưng hô trong gia đình là một phần quan trọng của văn hóa Việt đã được phát triển, lọc bỏ và truyền miệng qua hàng ngàn năm. Không chỉ là những câu châm ngôn, tục ngữ, ca dao… mà trong cuộc sống hàng ngày còn chứa đựng những điều thú vị. Tuy nhiên, trong thời đại hiện đại ngày nay, nó đã dần mất đi sự quan trọng. Hãy cùng tìm hiểu lại trong bài viết nhỏ này…

Xưng hô trong gia đình

Để hiểu rõ hơn về cách xưng hô trong gia đình, tôi đã tìm hiểu và liệt kê dưới đây để chúng ta cùng tham khảo. Dù không đầy đủ, nhưng đây là tổng quan để hiểu rõ vấn đề hơn.

Đối với các bậc ông bà

  • Bậc bề trên nói chung: Ông bà tổ tiên.
  • Gọi theo thứ tự đời: Ông bà cố tổ, tằng tổ, cao tổ.
  • Cha mẹ của cha hoặc của mẹ: Ông bà nội hoặc ông bà ngoại.
  • Cha mẹ, Anh chị em của ông bà: Cha mẹ của ông bà được gọi là “ông/bà cố nội”, hoặc “ông/bà cố ngoại”. (miền Bắc gọi là cụ nội, cụ ngoại). Anh chị em của ông, bà thì sẽ tuỳ theo thứ bậc với ông, bà mình mà gọi là “ông bác” (tức là bác của cha hoặc mẹ mình), “bà bác”, “ông chú”, “bà cô”, “bà dì”, “ông cậu”…
  • Xưng hô với các bậc này thì dùng từ “cháu”. Ở ngôi thứ ba, tương quan với bậc từ cố trở lên thì gọi là “chắt”, “chít”.

Đối với bậc cha mẹ, con cái và anh chị em

  • Cha: Miền Bắc gọi cha, bố, thầy. Miền Nam gọi cha, ba, tía. Miền Trung gọi ba, cha.
  • Mẹ: Miền Bắc gọi mẹ, me, u, bu, đẻ, cái, mợ. Miền Nam gọi mẹ, má. Miền Trung gọi mẹ, má, mạ.
  • Anh: Cả ba miền gọi anh. Người anh đầu người Bắc gọi là anh cả, người Nam và Trung gọi là anh hai.
  • Chị: Cả ba miền gọi chị. Miền Bắc, chị đầu gọi là chị cả. Miền Nam, miền Trung: chị đầu gọi là chị hai.
  • Em trai, em gái: Cả ba miền đều gọi em.
  • Chồng chị và chồng em gái gọi là anh rể và em rể. Vợ anh trai và vợ em trai thì gọi là chị dâu và em dâu.
  • Vợ con trai mình gọi là con dâu, chồng con gái mình gọi là con rể.
  • Cha, mẹ, anh, chị em của chồng gọi là cha chồng, mẹ chồng, chị chồng, anh chồng, em chồng. Cha, mẹ, anh, chị, em của vợ gọi là cha vợ, mẹ vợ, anh vợ, chị vợ và em vợ.
  • Khi xưng hô với nhau giữa hai người thì các từ “rể”, “dâu”, “cha chồng”, “mẹ chồng” sẽ bị loại bỏ.
  • Ví dụ: Con dâu nói với mẹ chồng: Con xin phép mẹ! Hoặc cha vợ nói với con rể: Cha nhờ con việc này!
  • Khi nói với người thứ ba, thì thêm “rể/dâu/cha chồng/mẹ chồng…” trước từ người thứ ba. Ví dụ: Con rể tôi, con dâu tôi; cha chồng tôi, mẹ vợ tôi…

Đối với bậc anh chị em của cha mẹ, anh chị em họ

  • Anh của cha: Cả ba miền gọi bác.
  • Vợ của anh cha: Cả ba miền gọi bác (bác gái).
  • Em trai của cha: Cả ba miền gọi chú.
  • Chị của cha: Miền Bắc gọi là bác. Miền Trung gọi cô, o. Miền Nam gọi cô.
  • Chồng chị của cha: Miền Bắc gọi bác. Miền Trung và Nam gọi dượng.
  • Chồng em gái của cha: Miền Bắc gọi là chú. Miền Nam và Trung gọi dượng.
  • Anh trai của mẹ: Miền Bắc gọi bác. Miền Nam và Trung gọi cậu.
  • Vợ anh trai của mẹ: Miền Bắc gọi bác. Miền Trung và Nam gọi mợ.
  • Em trai của mẹ: Cả ba miền gọi cậu.
  • Vợ em trai của mẹ: Cả ba miền gọi mợ.
  • Chị của Mẹ: Miền Bắc gọi bác. Miền Trung và Nam gọi dì.
  • Chồng chị của mẹ: Miền Bắc gọi bác. Miền Trung và Nam gọi dượng.
  • Em gái của Mẹ: Cả ba miền gọi dì.
  • Chồng em gái của mẹ: Miền Bắc gọi chú. Miền Trung và Nam gọi dượng.
  • Anh chị em họ: Cả ba miền vẫn gọi là anh, chị, em như anh chị em ruột. Trường hợp người vai anh/chị nhỏ tuổi hơn nhiều so với người vai em thì gọi người vai em là chú/cô/cậu/dì (tức chú em, cô em, cậu em, dì em).
  • Bác, chú, cô, o, cậu, mợ, dì, dượng… gọi các con anh em mình bằng cháu. Trong cách xưng hô với anh chị em của cha mẹ, người Bắc ưu tiên tuổi tác khi gọi anh, chị cha và mẹ là bác, và cấp nhỏ là chú cậu, cô mợ và không dùng chữ dượng.
  • Người Nam và Trung ưu tiên về nội ngoại, thân sơ. Dì thì luôn bên ngoại dù tuổi lớn hay nhỏ; cô hoặc o thì luôn bên nội dù chị hay em của cha. Chú thì chỉ dùng cho em cha, thuộc bên nội thôi. Người không dòng máu cha mẹ thì gọi là dượng, mợ, thím để phân biệt với bác, chú, cô o, cậu là anh em ruột thịt. Chỉ có cách gọi “bác” gái vợ anh trai của cha là một ngoại lệ.

Dân tộc Việt Nam chủ yếu tuân thủ theo hệ thống gia đình phụ hệ, tức là lấy họ cha và pháp đồ của gia đình cũng lấy họ cha làm trung tâm. Từ đó, cách xưng hô trong gia đình đã phát triển theo. Cách xưng hô trong ngôn ngữ Việt cho biết vị thế, quan hệ, phân biệt dễ dàng những mối quan hệ gia đình và cách cư xử lễ phép phù hợp với đạo đức trong cuộc sống.

Chỉ cần nghe cách gọi, ta có thể biết ai thuộc bên nội hay bên ngoại, ai là anh em, dâu rể, có quan hệ huyết thống hay không trong gia đình ngay lập tức. Đây là sự khác biệt và tiến bộ của cách xưng hô trong gia đình của miền Trung và miền Nam.

Kho tàng ca dao, thành ngữ, tục ngữ của Việt Nam cũng có nhiều câu nói về các mối quan hệ này. Ví dụ như:

  • “Chết cha còn chú, sẩy mẹ bú dì.”
  • “Con chú con bác, có gì khác nhau.”
  • “Không cha có chú ai ơi. Thay mặt, đổi lời chú cũng như cha.”
  • “Con cô con cậu thì xa, Con chú con bác thật là anh em…”

Với một số câu trong kho tàng ngôn ngữ Việt, ta có thể thấy từ xa xưa, cách gọi “chú” chỉ dành cho anh em trai ruột thịt. Vậy vì sao lại gán từ “bác” cho chị gái của cha, cho chị gái của mẹ, từ “chú” cho chồng của cô, chồng của dì? Điều này phù hợp với sự tiến bộ ở chỗ nào? Nó thể hiện điều gì trong sự phân biệt huyết thống gia đình? Hay đây chỉ là sự biến thể do sở thích được kính trọng cao khi được phân định “vai trò lớn” (!?). Những câu hỏi này cần được giải đáp bởi các nhà nghiên cứu, ngôn ngữ học và quản lý văn hóa.

Hãy cùng nhau gìn giữ ngôn ngữ Việt.

Bài viết được chỉnh sửa bởi dnulib.edu.vn.