THÔNG TIN TỔNG HỢP

0
37
Rate this post

Địa hình Việt Nam

Việt Nam là một đất nước có địa hình đa dạng, gồm các loại đồi núi, đồng bằng, bờ biển và thềm lục địa. Địa hình phản ánh lịch sử phát triển địa chất và địa hình trong môi trường gió mùa, nóng ẩm và phong hóa mạnh mẽ. Đồi núi chiếm phần lớn diện tích lãnh thổ, nhưng chủ yếu là đồi núi thấp. Có khoảng 85% lãnh thổ là địa hình thấp dưới 1.000 m, trong khi núi cao trên 2.000 m chỉ chiếm 1%. Đồi núi tạo thành một cánh cung lớn hướng ra Biển Đông, trải dài 1400 km từ Tây Bắc tới Đông Nam Bộ. Đỉnh Phan-xi-phăng, cao nhất bán đảo Đông Dương, đạt độ cao 3.143m. Càng ra phía đông, các dãy núi sẽ dần thấp lại và kết thúc bằng một dải đất thấp ven biển. Từ đèo Hải Vân xuống Nam, địa hình đơn giản hơn, không còn những dãy núi đá vôi dài nữa, mà thay vào đó là những khối đá hoa cương rộng lớn, thỉnh thoảng nổi lên thành đỉnh cao; phần còn lại là những cao nguyên liên tiếp hợp lại thành Tây Nguyên, với một dãy Trường Sơn nằm ở rìa phía đông. Đồng bằng chỉ chiếm ¼ diện tích trên đất liền và bị đồi núi chia cắt thành nhiều khu vực khác nhau. Ở hai đầu đất nước, có hai đồng bằng rộng lớn, đó là đồng bằng Bắc Bộ (lưu vực sông Hồng, rộng 16.700 km2) và đồng bằng Nam Bộ (lưu vực sông Mê Kông, rộng 40.000 km2). Nằm giữa hai khu vực đồng bằng lớn đó, có một chuỗi đồng bằng nhỏ hẹp, dọc theo duyên hải miền Trung, từ đồng bằng Mã (Thanh Hóa) đến Phan Thiết, tổng diện tích khoảng 15.000 km2. Việt Nam có ba mặt tiếp giáp với biển, với bờ biển dài 3.260 km từ Móng Cái ở phía Bắc đến Hà Tiên ở phía Tây Nam. Phần Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía đông và đông nam, có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn nhỏ bao bọc. Chẳng hạn, Vịnh Bắc Bộ tập trung gần 3.000 hòn đảo trong khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, đảo Cát Hải, Cát Bà, đảo Bạch Long Vĩ, và xa hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ở phía tây-nam và nam, có các nhóm đảo Côn Sơn, Phú Quốc và Thổ Chu.

Dân số

Theo kết quả điều tra dân số năm 2021, dân số Việt Nam được ước tính là 98,51 triệu người, trong đó dân số nam chiếm 49,8% và dân số nữ chiếm 50,2%. (Nguồn: Tổng Cục Thống kê).

Khí hậu

Việt Nam nằm trong vùng địa lý có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với nhiệt độ cao và độ ẩm lớn trên suốt cả năm. Phía Bắc bị ảnh hưởng bởi lục địa Trung Hoa nên khí hậu tương đối lục địa. Biển Đông có ảnh hưởng sâu sắc đến tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm của lục địa. Khí hậu ở Việt Nam không đồng nhất trên toàn lãnh thổ, hình thành các miền và vùng khí hậu khác nhau. Khí hậu Việt Nam thay đổi theo mùa và theo vùng, từ thấp lên cao, từ bắc vào nam và từ đông sang tây. Do ảnh hưởng mạnh của gió mùa đông bắc, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam thấp hơn so với nhiều nước khác cùng vĩ độ ở châu Á. Việt Nam có thể được chia làm hai đới khí hậu lớn: (1) Miền Bắc, từ đèo Hải Vân trở ra, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 4 mùa rõ rệt (xuân-hạ-thu-đông), chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc từ lục địa châu Á và gió mùa đông Nam từ Thái Lan, Lào và Biển Đông, có độ ẩm cao. (2) Miền Nam, từ đèo Hải Vân trở vào, do ít chịu ảnh hưởng của gió mùa, có khí hậu nhiệt đới khá điều hòa, nóng quanh năm và chia thành hai mùa rõ rệt (mùa khô và mùa mưa). Ngoài ra, do cấu trúc địa hình đa dạng, Việt Nam còn có các vùng tiểu khí hậu. Có nơi có khí hậu ôn đới như tại Sa Pa, tỉnh Lào Cai; Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; và có nơi thuộc khí hậu lục địa như Lai Châu, Sơn La. Đây là những địa điểm lý tưởng cho du lịch và nghỉ mát. Nhiệt độ trung bình tại Việt Nam dao động từ 21oC đến 27oC và gia tăng từ bắc vào nam. Trong mùa hè, nhiệt độ trung bình trên cả nước là 25oC (Hà Nội 23oC, Huế 25oC, thành phố Hồ Chí Minh 26oC). Mùa đông ở miền Bắc, nhiệt độ xuống thấp nhất vào các tháng 12 và 1. Ở vùng núi phía Bắc như Sa Pa, Tam Đảo, Hoàng Liên Sơn, nhiệt độ có thể xuống tới 0oC và có tuyết rơi. Việt Nam có lượng bức xạ mặt trời rất lớn, với số giờ nắng từ 1.400 – 3.000 giờ/năm. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500 đến 2.000 mm và độ ẩm không khí dưới 80%. Do ảnh hưởng của gió mùa và sự phức tạp về địa hình, Việt Nam thường đối mặt với những điều kiện thời tiết bất lợi như bão, lũ lụt và hạn hán.

Sông ngòi

Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc, với hơn 2.360 con sông dài trên 10 km, chảy theo hai hướng chính là tây bắc – đông nam và vòng cung. Hai sông lớn nhất là sông Hồng và sông Mê Kông tạo nên hai vùng đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu. Hệ thống các sông suối hàng năm cung cấp đến 310 tỷ m3 nước. Chế độ nước của sông ngòi chia thành hai mùa, mùa lũ chiếm tới 70-80% lượng nước cả năm và thường gây ra lũ lụt.

Đất đai, thực vật, động vật

Đất ở Việt Nam rất đa dạng, có độ phì cao, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và lâm nghiệp. Việt Nam có hệ thực vật phong phú và đa dạng, với khoảng 14.600 loài thực vật. Thảm thực vật chủ yếu là rừng rậm nhiệt đới, bao gồm các loại cây ưa ánh sáng, nhiệt độ cao và độ ẩm cao. Quần thể động vật ở Việt Nam cũng phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều loài thú quý hiếm được ghi vào Sách Đỏ của thế giới. Hiện nay, đã liệt kê được 275 loài thú có vú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài lưỡng cư, 2.400 loài cá và 5.000 loài côn trùng. Các rừng rậm, rừng núi đá vôi, rừng nhiều tầng lá là nơi cư trú của nhiều loài khỉ, voọc, vượn, mèo rừng. Các loài voọc đặc hữu của Việt Nam gồm voọc đầu trắng, voọc quần đùi trắng và voọc đen. Ngoài ra, cũng có nhiều loài chim quý như trĩ cổ khoang và trĩ sao. Núi cao ở miền Bắc có nhiều loài thú lông dày như gấu ngựa, gấu chó, cáo và cầy. Việt Nam đã giữ gìn và bảo tồn một số vườn quốc gia có đa dạng sinh học quý hiếm như Vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn (khu vực núi Phan-xi-păng, Lào Cai), Vườn quốc gia Cát Bà (Quảng Ninh), Vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Vườn quốc gia Pù-mát (Quảng Bình), Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng (Quảng Bình), Vườn quốc gia Bạch Mã (Thừa Thiên Huế), Vườn quốc gia Côn Đảo (đảo Côn Sơn, Bà Rịa-Vũng Tàu), Vườn quốc gia Cát Tiên (Đồng Nai) và nhiều vườn quốc gia khác. Các vườn quốc gia này không chỉ là nơi để các nhà sinh học Việt Nam và thế giới nghiên cứu khoa học, mà còn là những địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Ngoài ra, UNESCO đã công nhận 9 khu dự trữ sinh quyển ở Việt Nam là khu dự trữ sinh quyển thế giới, gồm Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ, Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai, Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà, Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng, Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang, Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An, Khu dự trữ sinh quyển Mũi Cà Mau và Khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm, cùng với Khu dự trữ sinh quyển Langbiang.

Đọc thêm trên dnulib.edu.vn