Cái ghẻ: Loài ký sinh trùng đào hang đẻ trứng trên da người

0
46
Rate this post

Cái ghẻ, còn được gọi là Sarcoptes scabiei, là một loài ký sinh trùng thuộc Họ Sarcoptidae trong lĩnh vực y học. Loài cái ghẻ trước đây được biết đến với tên Acarus scabiei trước khi được đổi tên thành Sarcoptes scabiei. Loài này có ba phân loài, trong đó có phân loài Sarcoptes scabiei var. hominis (ký sinh trên người), Sarcoptes scabiei var. canis (ký sinh trên chó) và Sarcoptes scabiei var. suis (ký sinh trên mèo) [1,2]. Mặc dù kích thước cơ thể rất nhỏ, cái ghẻ có khả năng “đào hang” để đẻ trứng và sinh sống trên da người và động vật.

1. Hình dạng

Cái ghẻ trưởng thành có hình bầu dục, mặt lưng gồ, mặt bụng phẳng và không có mắt, đây là nhận dạng Sarcoptes scabiei. Chúng có 8 chân. Trên mặt da, có nhiều vết rãnh song song và lông, không có lỗ thở mà h hít oxy qua da. Kích thước của con cái khoảng 330 – 450 micrômét, con đực khoảng 200 – 240 micrômét. Miệng của nó bao gồm một kiềm có răng, hai cái móng vuốt hình nón nối tiếp nhau và môi dưới dính với hàm dưới [^1^].

Trứng của cái ghẻ có hình bầu dục, trong suốt, có vỏ mỏng, kích thước là 170 micrômét x 92 micrômét [^1^,^2^].

Trứng Sarcoptes scabiei (a,b), Sarcoptes scabiei trưởng thành (c,d)
Trứng cái ghẻ và cái ghẻ trưởng thành

2. Chu trình phát triển của cái ghẻ

Sau khi xâm nhập vào da của người, cái ghẻ phá huỷ mô dưới da để lấy thức ăn và đào đường hầm để làm nơi sinh sống. Chúng thường đào đường hầm vào ban đêm, với mỗi ngày đào khoảng 3-5mm. Các đoạn đường hầm kết thúc khi đạt tới lớp sừng của da. Đường hầm này thường rất khó thấy và là biểu hiện lâm sàng đặc trưng nhất của bệnh ghẻ.

Sau khi giao phối, cái ghẻ đực chết, trong khi cái ghẻ cái tiếp tục đào đường hầm trong da và đẻ trứng. Mỗi lần đẻ, chúng đẻ 2-4 trứng và đẻ một lần mỗi 2-3 ngày. Sau 3-4 ngày, trứng sẽ nở thành ấu trùng có 6 chân. Ấu trùng sẽ chui lên mặt da, xâm nhập vào nang lông hoặc lớp vảy trên da, tạo ra các bọc khó thấy bằng mắt thường. Sau khoảng 3-10 ngày, ấu trùng sẽ lột xác một lần và trở thành nhộng, sau đó lột xác một lần nữa để trở thành cái ghẻ trưởng thành sau 8 ngày. Chu kỳ phát triển của cái ghẻ là khoảng 8-15 ngày, tùy thuộc vào nhiệt độ và khí hậu [^1^,^2^].

Chu trình phát triển của Sarcoptes scabiei

3. Vai trò gây bệnh

Ghẻ thường xuất hiện ở người trưởng thành và trẻ lớn ở các nơi như kẽ ngón tay, các kẽ gấp ở cổ tay, vùng khuỷu tay bên trong, lòng bàn chân, nách, lưng, mông, vùng quanh vú, xung quanh bộ phận sinh dục nam ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh có thể lan rộng khắp cơ thể.

Cái ghẻ thường đào đường hầm vào ban đêm, vì vậy người bệnh thường ngứa nhiều nhất vào ban đêm hoặc khi đi ngủ. Cái ghẻ di chuyển trên da gây kích thích các dây thần kinh cảm giác và độc tố ghẻ cái tiết ra khi đào đường hầm, gây ra tình trạng ngứa. Người bệnh gãi nhiều cũng gây trầy xước da, dễ bị nhiễm trùng da cấp tính bởi vi khuẩn (đặc biệt là Staphylococcus aureus và Streptococcus pyogenes). Da sẽ sần lên, xuất hiện mụn nước, mụn mủ và có thể dẫn đến bệnh chốc lở (loét da). Bệnh chốc lở có thể phức tạp hơn nếu bị nhiễm trùng sâu trong da, gây viêm nhiễm và nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh [^3^].

Nhiễm trùng da liên quan đến bệnh ghẻ là một yếu tố nguy cơ phổ biến cho các biến chứng như viêm cầu thận sau khi bị nhiễm trùng vi khuẩn và cũng có thể gây bệnh thấp khớp. Có bằng chứng cho thấy tổn thương thận có thể được tìm thấy ở 10% trẻ em bị nhiễm ghẻ ở những khu vực nghèo, dân cư đông đúc, khí hậu ấm và điều kiện vệ sinh kém. Vấn đề này vẫn tồn tại trong nhiều năm sau nhiễm trùng và gây tổn thương thận vĩnh viễn [^3^].

Bệnh ghẻ có thể phát triển phức tạp do nhiễm vi khuẩn, gây ra các vết loét da. Do đó, nó có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng hơn như nhiễm trùng máu, bệnh tim và bệnh thận mãn tính.

Ghẻ lây truyền thông qua tiếp xúc trực tiếp giữa da người bị ghẻ và da người khác. Khi ngứa, người bệnh cũng có thể làm cái ghẻ rơi ra trên quần áo, giường và gây lây lan bệnh. Bệnh cũng có thể lây qua tiếp xúc da trong quan hệ tình dục, do đó, nó được coi là một trong những bệnh lây truyền qua đường tình dục.

Bệnh có thể trở thành ổ dịch ở các khu vực đông đúc, nhà ở chật hẹp và thiếu vệ sinh, cũng như ở các trại giam.

Nếu bạn phát hiện có triệu chứng hoặc có tiếp xúc với người nhiễm ghẻ, hãy đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được khám và điều trị sớm, nhằm hạn chế biến chứng.

4. Chẩn đoán và điều trị

Các dấu hiệu và triệu chứng của người bị ghẻ cũng giống như nhiều bệnh da khác. Để chẩn đoán và xác định, bác sĩ có thể tìm thấy đường hầm trên vị trí ngứa hoặc có thể sử dụng con dao mổ để cạo một vùng da ngứa sau đó soi dưới kính hiển vi với một giọt nước muối sinh lý. Sau khi xác định được sự hiện diện của cái ghẻ và trứng, bác sĩ sẽ đưa ra kết luận chẩn đoán cuối cùng.

Điều trị cái ghẻ cần điều trị cùng lúc cho tất cả mọi người trong cùng môi trường sống chung, bao gồm nhóm tập thể, gia đình và nhà trẻ. Điều này giúp hạn chế tái nhiễm. Có thể sử dụng thuốc thoa hoặc thuốc uống và cần giặt sạch và phơi khô quần áo, chăn, màn [^2^].

Bệnh ghẻ có thể tái phát theo chu kỳ 3 tuần do trứng còn sống sót và phát triển thành cái ghẻ trưởng thành. Vì vậy, điều trị phải tuân thủ đúng phương pháp để đạt hiệu quả.

Gần đây, Viện Sốt rét – KST – CT Tp. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận nhiều bệnh nhân bị nhiễm cái ghẻ, bao gồm cả người lớn và trẻ em. Đã tìm thấy trứng cái ghẻ và cái ghẻ trưởng thành sau khi xét nghiệm da. Sau khi chẩn đoán bệnh ghẻ, các bệnh nhân được kê đơn điều trị và hướng dẫn về phòng ngừa bệnh.

5. Phòng tránh bệnh

Để phòng tránh bệnh ghẻ, cần duy trì vệ sinh cá nhân hàng ngày.

Khi phát hiện có người trong gia đình bị ghẻ, cần điều trị kịp thời và tránh tiếp xúc và sử dụng chung các vật dụng cá nhân của người bị bệnh [^2^].

Phạm Thị Thu Giang, Nguyễn Thị Khen

Tài liệu tham khảo:

  1. Trần Thị Kim Dung (2010), Ký Sinh Trùng y học trang 326,327.

  2. PGS.TS. Lê Thành Đồng (2018), “Các loài chân đốt y học ở khu vực Nam Bộ Lâm Đồng”, trang 192 – 200.

  3. https://www.who.int/neglected_diseases/diseases/scabies/en/ truy cập ngày 09/09/2019.

dnulib.edu.vn