Về các thành ngữ, tục ngữ, cụm từ cố định trong tiếng Việt

0
61
Rate this post

7. Bố cục luận văn

1.2.1. Về các thành ngữ, Tục ngữ, Cụm từ cố định trong tiếng Việt

a) Tục ngữ

Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian, chức năng chủ yếu là rút kết kinh nghiệm tri thức dưới hình thức những câu ngắn gọn, xúc tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền. Ví dụ:

  • Quan thấy kiến như kiến thấy mỡ
  • Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng…

Về nội dung, tục ngữ là kho kinh nghiệm và tri thức thực tiễn vô cùng phong phú và quý giá của nhân dân. Tác giả Chu Xuân Diên trong cuốn “Tục ngữ Việt Nam” đã cho rằng tục ngữ không chỉ là một hiện tượng ngôn ngữ mà còn là một hiện tượng ý thức xã hội. Với tư cách là một trong những hiện tượng ý thức xã hội, tục ngữ là những chứng tích, những biểu hiện lối sống thời đại, lối nghĩ của nhân dân. Song những chứng tích ấy chủ yếu tồn tại trong lời nói hàng ngày được nhắc đến trong khuôn khổ những cách nói quen thuộc mà ai cũng dùng được, ai cũng có thể hiểu được, nên tục ngữ lại còn là sản phẩm của lối nói dân tộc.

Tục ngữ là những phát ngôn có sẵn hình thành trong lời thoại hàng ngày, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ nhập tâm và dễ lưu truyền. Tục ngữ phần lớn ít ý nhiều, vừa giản dị vừa sâu sắc đúng như Hồ Chí Minh nhận xét “rất hay mà lại ngắn”.

Tục ngữ đánh giá mà cụ thể, trong luận văn này là tục ngữ đánh giá con người là một bộ phận của kho tàng tục ngữ Việt. Tác giả Phạm Thị Bích trong luận văn thạc sĩ của mình đã định nghĩa: “Tục ngữ đánh giá con người là những câu nhận định, đánh giá về một con người cụ thể (hay một nhóm người cụ thể) không phải như một danh danh, một sự gọi tên mà là một thông báo, một kết luận được rút ra từ kinh nghiệm từng trải trong thực tế khách quan, từ sự suy luận logic đồng thời là một phán đoán, là hệ quả có thể xảy ra từ sự nhận định, đánh giá bằng câu tục ngữ đó, nhờ đó tục ngữ là những câu răn dạy, bài học đạo đức cho người đời”.

Ví dụ như câu tục ngữ đánh giá về phẩm chất con người: “Miệng ăn núi lở”. Câu tục ngữ này để chỉ người chỉ ngồi mà ăn thì của có nhiều bằng núi cũng hết, từ đó cho thấy hệ quả là nếu lười lao động thì dù tiền của nhiều cũng sẽ tiêu tan hết.

Do nội dung có tính khái quát nên tục ngữ đánh giá con người thường được vận dụng trong các câu đánh giá cả tích cực và tiêu cực để khuyên răn hay đưa ra những bài học về nhân tình thế thái.

b) Thành ngữ

Theo “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt – Mai Ngọc Chứ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến” thì: “Thành ngữ tiếng Việt là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa. Nghĩa của chúng có tính hình ảnh và gợi cảm”. Ví dụ:

  • Nói thành nói tướng
  • Lừ đừ như ông từ vào đền
  • Chó ngáp phải ruồi

Một số đặc điểm chủ yếu về nghĩa của thành ngữ:

  • Thành ngữ có tính tổng thể và tính mới. Nghĩa của một thành ngữ không thể suy ra được từ sự tổng hợp nghĩa của các từ tạo nên nó. Việc tìm hiểu ý nghĩa của thành ngữ trong nhiều trường hợp giống như việc tìm hiểu nghĩa của từ, tức là tìm hiểu nghĩa trong tổng thể chứ không suy mô tư từ các thành tố cấu thành.

  • Thành ngữ có tính biểu trưng và theo đó là tính hình ảnh.

  • Thành ngữ có tính dân tộc. Việc biểu trưng hoá các đặc điểm miêu tả của con người, của các vật, hiện tượng, tính chất… chưa có tên hoặc nêu bật ra các sự vật, hiện tượng, tính chất… chưa có tên gọi. Ví dụ, cùng để chỉ nước da trắng của người con gái, người Việt nói “trắng như trứng gà bóc”, trong khi nhiều dân tộc khác nói “trắng như tuyết”; hoặc cùng diễn đạt ý “rẻ”, người Việt Nam nói “rẻ như bèo”, nhưng người Nga lại nói “rẻ như củ cải hầm”… Bởi vậy, hình ảnh xuất hiện trong thành ngữ của biểu thức đánh giá sẽ được quan tâm phân tích để rút ra đặc điểm văn hóa Việt Nam.

  • Thành ngữ có tính cụ thể, gợi hình ảnh hơn so với các từ đồng nghĩa với chúng. So sánh: “lúng túng” với “lúng túng như gà mắc tóc”, “lúng túng như thợ vụng mất kim”, “lúng túng như chó ăn vụng bột”. Cả ba thành ngữ này tuy cùng biểu thể tính chất “lúng túng” nhưng mỗi thành ngữ biểu thể tính chất này ở những khía cạnh, góc độ khác nhau – điều không có ở từ “lúng túng”, và có tính hình ảnh hơn.

  • Thành ngữ có tính biểu cảm. Khi sử dụng thành ngữ, người giao tiếp thể hiện rõ thái độ, tình cảm của mình.

Nhờ có những đặc điểm ngữ nghĩa như trên mà thành ngữ được sử dụng rộng rãi và phổ biến đặc biệt là trong những câu đánh giá, để đáp ứng những nhu cầu diễn đạt mà nếu chỉ sử dụng từ sẽ không thể thực hiện được.

Trong các thành ngữ, chúng tôi chú trọng khảo sát thành ngữ đánh giá con người. “Thành ngữ đánh giá con người” là “những thành ngữ định danh, gọi tên một con người cụ thể (hay một nhóm người cụ thể) với tư cách một cá nhân trong cộng đồng; định danh, gọi tên con người trong mối quan hệ với những con người khác trong cộng đồng nhằm khắc họa hình ảnh một con người về hình dáng bên ngoài và phẩm chất bên trong”…

Ví dụ:

  • “Đầu bò đầu bướu” là thành ngữ đánh giá vì nó gọi tên, định danh một phẩm chất “ngang ngược, ương ngạnh, bướng bỉnh” của người nào đó.

Như vậy, thông qua định nghĩa và đặc điểm ta có thể nhận thấy sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là sự khác nhau về chức năng thể hiện cả về mặt nội dung lẫn cấu tạo hình thức.

  • Trong hành chúc, thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ có sẵn mà người nói lựa chọn như thành phần để tạo câu; trong khi đó tục ngữ thường đưa ra một kết luận thâm thúy đúc từ tri tuệ dân gian: răn đe, cảnh báo, đề cao, bài học kinh nghiệm, đối nhân xử thế…

  • Về cấu tạo hình thức, thành ngữ là đơn vị ngôn ngữ có sẵn nhưng không phải là phát ngôn có sẵn; trong khi đó tục ngữ là phát ngôn có sẵn, chính vì vậy trong dân gian tục ngữ được gọi nôm na là “câu tục ngữ” với cách hiểu đó là những phát ngôn đặc biệt. Có thể coi tục ngữ là những phát ngôn hình thành trong lời thoại hàng ngày, ngắn gọn, hàm súc, chứa đựng nhiều bài học và những lời giảo huấn bổ ích.

Có thể thấy, tục ngữ và thành ngữ chính là kho tàng văn hóa, là tinh hoa làm cho lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động trở nên trong sáng và hấp dẫn hơn. Do đặc tính dễ nhớ, dễ lưu truyền và được diễn đạt bằng một ngữ cảm phù hợp với người bản ngữ Việt nên chúng thường được vận dụng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân. Nội dung và hình thức thể hiện của tục ngữ và thành ngữ trong những câu đánh giá tiếng Việt sẽ được chúng tôi đi sâu trình bày và phân tích trong luận văn.

c) Cụm từ cố định

Trong “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu” đã định nghĩa: “Ngữ cố định là các cụm từ (ý nghĩa có tính chất là ý nghĩa của cụm từ, cấu tạo là cấu tạo của từ), nhưng đã cố định hóa cho nên cũng có tính chất chặt chẽ, sẵn có, bắt buộc, có tính xã hội như từ”.

Ví dụ:

  • Hết nước hết cái
  • Ba chìm bảy nổi
  • Đâm bị thóc chọc bị gạo…

Cũng trong công trình này, tác giả đã phân loại ngữ cố định: Tách những ngữ trung gian với cụm từ tự do thành một loại gọi là quán ngữ, những trường hợp còn lại, trường hợp trung gian với từ phức và các ngữ cố định thực sự là các thành ngữ.

d) Quán ngữ tình thái

Có nhiều quan niệm của các nhà nghiên cứu về quán ngữ tình thái. Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng: Quán ngữ là những cách nói, cách diễn đạt cần thiết để đưa đẩy, chuyển ý hay dẫn ý, để dẫn nhập đề chứ không có tác dụng nêu bật lên một sắc thái của những cái đã có tên hoặc nêu bật ra các sự vật, hiện tượng, tính chất… chưa có tên gọi. Ví dụ: “ai cũng biết, nói tóm lại, cũng thế thôi, không sớm thì muộn, nghĩa là, đáng chú ý là…”

Nguyễn Thiện Giáp quan niệm “quán ngữ là những kết hợp cố định được lặp đi lặp lại trong những phong cách chức năng nhất định. Quán ngữ chưa tạo thành một thông báo, vai trò chủ yếu của nó là để đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh. Về ý nghĩa cũng như hình thức, các quán ngữ không khác những cụm từ tự do nhưng nội dung của chúng đã trở thành điều thường xuyên phải cần đến trong suy nghĩ và diễn đạt mà chúng được dùng như những đơn vị có sẵn. Ví dụ: “của đáng tội, khí không phải (khẩu ngữ), như trên nói, có thể nói rằng…”.

Các tác giả cuốn “Cơ sở Tiếng Việt” định nghĩa theo lối chiết tự theo nghĩa đen, quán nghĩa là quen. Vậy quán ngữ là một loại ngữ cố định, được người ta quen dùng. Ví dụ: nói tóm lại, kết quả là, trước hết là…

Như vậy, nói một cách khái quát thì quán ng ữ là loại ngữ cố định được quen dùng nhưng ít hoặc không có tính hình tượng.

Trong luận văn này chúng tôi quan tâm đến các quán ngữ tình thái được dùng trong các lối nói đánh giá tiếng Việt. Khải niệm này được tác giả Đoàn Thị Thu Hà gọi là quán ngữ biểu thị tình thái.

Tình thái là một phạm trù ngữ nghĩa – chức năng phản ánh mối quan hệ, thái độ, cách đánh giá của người nói đối với nội dung của phần còn lại trong câu. Quán ngữ biểu thị tình thái được định nghĩa: “Quán ngữ biểu thị tình thái là những tổ hợp từ, những lối nói đã tạo thành những đơn vị, khối hay khuôn cấu trúc tương đối ổn định được người nói dùng như một công cụ có chức năng của những tác tử tình thái tác động vào nội dung mệnh đề theo một kiểu nào đó”…

Theo đó, quán ngữ chủ yếu tham gia vào tình thái của câu, nằm trong cấu trúc của ngữ nghĩa – ngữ dụng. Tác dụng của quán ngữ tình thái là làm phương tiện hỗ trợ, tác động vào nội dung mệnh đề, vào ý nghĩa của chỉnh thể câu; đưa vào câu những kiểu tình thái đánh giá, biểu cảm khác nhau, gắn câu với hoàn cảnh giao tiếp thực, tạo nên tính sinh động, uyển chuyển và chính xác của câu nói.

Ví dụ: Thật ra, trong nghề mật thám , hắn chẳng có tài ba gì, chỉ là loại lính mới tò te. Nhưng được cái hắn rất táo tợn, liều lĩnh và hay gặp vận may. Như việc bất ngờ gặp chú em nuôi sáng nay chẳng hạn.

Trong ví dụ trên, quán ngữ tình thái “được cái” xuất hiện trong cảu để hiển thị một đánh giá tích cực về vấn đề được nói đến, dựa trên tiêu chuẩn của một nghề. Cụ thể trong ngữ cảnh trên, tác giả cho rằng tính cách “táo tợn, liều lĩnh” của người mật thám mới vào nghề là điều tốt, đặc biệt sự may mắn là điều mọi người mong muốn, do đó nó được đánh giá tích cực.

Dựa trên cơ sở ngữ nghĩa và sự phân loại của các lối nói đánh giá trong tiếng Việt, chúng tôi chia các quán ngữ tình thái thành hai loại: Quán ngữ tình thái mang tính đánh giá tích cực và quán ngữ tình thái mang tính đánh giá tiêu cực. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ quan tâm đến các quán ngữ tính thái luôn luôn mang tính đánh giá tích cực và tiêu cực, đó là:

Quán ngữ tình thái mang tính đánh giá tích cực: Được cái, Thế/ như thế mới (gọi) là…

Quán ngữ tình thái mang tính đánh giá tiêu cực: Phải cái, đời thụa nhà ai/ đời thụa nào/ ai đời/ ai lại, thế (mà) cũng đòi.

Các quán ngữ trên sẽ được chúng tôi trình bày cụ thể trong chương 2 của luận văn.

1.2.2. Về việc sử dụng các thành ngữ, Tục ngữ, Cụm từ cố định (ThNTNCTCĐ) để đánh giá tích cực – tiêu cực