Sông Lô – Một dòng huyền thoại!

0
54
Rate this post

Huyền thoại luôn là một phần kỷ niệm của nhân loại, để lưu giữ những phẩm chất độc đáo của mình. Một trong những truyền thuyết lâu đời nhất về vùng ngã ba này là câu chuyện về hai vị thần có tên là Thạch Khanh và Thổ Lệnh, họ đã chuyển nhau qua dòng sông. Với người dân làm nghề nông, cống hiến cho đất đai, tác giả dân gian đã quyết định thần Thổ Lệnh (thổ có nghĩa là đất, thạch có nghĩa là đá) sẽ chiến thắng. Vì thế, thần Thổ Lệnh được thờ cúng tại đền Bạch Hạc.

Huyền thoại gần với sự thật hơn khi dòng sông Lô kết hợp sự hợp lưu của ba con sông Hồng, Đà và Lô, tạo thành một vùng đất thiêng, là nơi xuất phát của các dân tộc Việt và là quê hương của vua Hùng. Từ mẫu cổ này, đã xuất hiện nhiều truyền thuyết khác, trong đó có phong tục lấy nước thiêng. Theo truyền thống, vào lúc 12 giờ đêm, khi vũ trụ hòa nhịp, người ta phải chèo thuyền giữa ba con sông để lấy nước. Đó không chỉ là nước thông thường mà còn mang ý nghĩa của “lộc” từ tổ tiên, là linh khí của trời đất và thiên nhiên. Điều này liên quan đến tâm linh, trong khi trong thực tế, dòng sông mang lại may mắn cho con người qua các loại cá đặc biệt như cá tiến vua, cá anh vũ, cá dầm xanh, cá lăng chấm,…

Ngược dòng Lô từ vùng Ngã ba Hạc đến Tuyên Quang, bạn sẽ thấy một không gian văn hóa liên quan đến Mẫu Thoải. Kinh Dương Vương đã yêu mến con gái của Long Vương, và từ đó, Sùng Lãm, còn được gọi là Lạc Long Quân – thủy tổ của bộ tộc Lạc Việt, đã sinh ra. Sau đó, người dân tôn kính Mẫu Thoải (còn gọi là Mẹ Nước) để công nhận những đóng góp to lớn của Bà không chỉ trong việc sinh ra vị vua đầu tiên, mà còn giúp dân làm ăn, chống giặc và đối phó với thú dữ. Hiện nay, trên lưu vực sông vẫn còn tồn tại hệ thống ban thờ Mẫu trong các đền, chùa từ Việt Trì, Đoan Hùng, Thanh Ba, Hạ Hòa đến Tuyên Quang.

Mỗi truyền thuyết đều có một nền tảng, một nguồn gốc từ sự thật. Càng vững chắc nền tảng đó, thì truyền thuyết càng được lan tỏa xa và bay cao. Dòng sông Lô huyền thoại chảy từ dòng sông Lô thực tế, giống như câu ca dao: “Sông Lô một dải trong ngần, Thảnh thơi ta rũ bụi trần cũng nên”. Cảnh đẹp tươi mát và thơ mộng đã truyền cảm hứng cho bài phú nổi tiếng “Ngã Ba Hạc phú” của nhà thơ Nguyễn Bá Lân (1701-1785) thời vua Lê Hiển Tông. Qua bài phú, người xưa đã miêu tả vẻ đẹp tự nhiên của dòng sông quê hương: “Xinh thay ngã ba Hạc, Lạ thay ngã ba Hạc, Trên chia ba ngác, Ngóc ngách khôn đo rộng hẹp, Dòng biếc lẫn dòng đào”.

Trong thời hiện đại, dòng sông Lô có một cái nhìn cá nhân hơn: “Việt Bắc có con sông Lô, Mùa mưa ngập bến, mùa khô cạn dòng” (Ca dao). Điều này không chỉ là về phẩm chất sáng tạo của người, mà còn về sự thẩm mỹ của đối tượng. Có lẽ đó là lý do tại sao sông Lô đã được nhà nhạc sĩ Văn Cao nhắc đến không giống với bất kỳ dòng sông nào khác: “Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u, Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu…” (Trường ca sông Lô). Sông Lô đã trở thành truyền thuyết gắn liền với chiến dịch Sông Lô lịch sử (Thu Đông 1948), nơi quân và dân ta chôn vùi hàng ngàn xác quân địch, đốt cháy nhiều tàu chiến và đánh bại ý đồ tấn công căn cứ địa Việt Bắc của quân xâm lược Pháp.

Bài hát “Lô giang” của nhạc sĩ Lương Ngọc Trác vượt qua sự kể chuyện và miêu tả để đạt được một cách tổng quát về hình ảnh. Chỉ thông qua một câu hát “Lũ Tây kinh hoàng trốn xuống đáy sông làm ngầu nước xanh”. Lúc này, âm nhạc đã trở thành thơ với sự tập trung, giàu tính nhạc vụ, diễn tả nhiều ý nghĩa nhưng lại sử dụng ít từ ngữ nhất. Bài hát không chỉ nói về thất bại thảm hại mà còn nói về sự hèn nhát và sợ hãi của kẻ thù. Nói về cái chết và đổ máu mà không cần đề cập đến máu đổ và cái chết. Nói về hiện tại mà lại kích thích những kỷ niệm về quá khứ, “làm ngầu nước xanh” có nghĩa là nước đục, thậm chí có thể là nước đỏ (do máu), và trước đó, nó là “nước xanh”…

Khi kẻ thù tan chảy, dòng sông lại trở nên thanh bình, vui vẻ và đẹp đẽ. “Trường ca sông Lô” trở thành một kiệt tác âm nhạc của tài năng vĩ đại Văn Cao nhờ nó đọng trong trái tim mọi người để nói lên niềm khao khát sâu sắc nhất của con người, yêu thương và hòa bình cho đất nước. “Trên dòng sông trở về đoàn người, reo mừng vui trên sóng nước biếc, Dân hân hoan nghe sóng réo vi vu, Xa xa đường ngập người bao gió ngát vi vu hiền hòa…”.

Khi con người vui vẻ, cuộc sống trở nên vui vẻ, bầu trời cũng vui vẻ, tất nhiên là sông và rừng cũng vui vẻ, hát và cười. Hình ảnh khỏe mạnh, nhịp điệu nhanh, mạnh mẽ và hào hứng đồng hành với câu hát: “Vui hát ca hòa vui hát ca”, lặp đi lặp lại như để tạo ra một phổ tổng quát về niềm vui của sự thay đổi cuộc sống: “Vui hát ca hòa vui hát ca dân vui nắng như chim Xuân thấy mùa, Vui hát ca hòa vui hát ca hòa những lưới mắc, ta vui khoang cá đầy, Vui hát ca hòa vui hát ca hòa với ánh sáng ta đang xây đời mới…”.

Bài hát “Tiếng hát trên sông Lô” của nhạc sĩ Phạm Duy cũng là một lời hát về niềm vui hòa bình theo một phong cách hoàn toàn khác biệt: “Trên nước sông Lô, thuyền ơi, ta hát say sưa, Quân cướp đi xa, về đây ta sống chan hòa, Sông nước hôm qua còn reo như gió như mưa, Sông nước hôm nay lại trôi êm ái như xưa…”. Nhịp thơ nhẹ nhàng của bài hát trôi qua hai bờ xưa và nay của dòng sông huyền thoại, rồi hướng về biển niềm tin, hy vọng và “chan hòa” hạnh phúc!

Hòa bình trở lại. Chiếc tàu của người Pháp xâm lược đã chìm sâu xuống đáy sông. Dòng sông Lô trở thành truyền thuyết về sự đẹp đẽ và sự giàu có, thịnh vượng của đất nước. Lời thơ chứa đựng hy vọng để hình ảnh Tổ quốc vươn lên: “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi, Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt, Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát, Chuyến phà dào dạt, bến nước Bình Ca” (Tố Hữu – “Ta đi tới”). Với đặc trưng địa hình, trên mặt sông Lô thường có hình ảnh con đò nối hai bờ. Vào năm 1957, nhà thơ Trần Dần đã để lại hình ảnh con đò lạc quan trong cảnh thơ mộng của Việt Bắc: “Đây! Việt Bắc! Sông Lô, nước xanh, tròng trành mảnh nguyệt. Bình Ca, sương xuống, lạc con đò!”. Chỉ khi bạn băng qua sông Lô trên một con đò đêm cuối năm mới thấy rõ cảm giác “tròng trành mảnh nguyệt” thực sự thú vị!

Hầu hết các dòng sông lớn trên thế giới đều chứa đựng những chuyện tình yêu. Có lẽ có lý do gì đó khi hình ảnh sông và tình yêu có những tương đồng thẩm mỹ gần gũi như sức sống mãnh liệt và bí ẩn; niềm đam mê, sự cháy bỏng; sự hy sinh, lòng nhân từ và sự chờ đợi… Những điều đó thường được biểu hiện một cách sinh động qua các thể loại nghệ thuật.

Với sông Lô ở thời hiện đại, nó gắn liền với truyền thuyết về tình yêu và những cảm xúc khó quên trong bài hát “Sông Lô chiều cuối năm” của nhạc sĩ Minh Quang: “Sông Lô chiều cuối năm, bất chợt gặp câu hát từ bến sông xưa vọng lại…”. Buổi chiều, đến cuối năm, tất cả đều mang lại cảm giác xúc động, nhung nhớ về việc sum vầy gia đình, về niềm hạnh phúc, đặc biệt là với những người xa quê. Trong tình huống đó, nhạc sĩ “bất chợt gặp câu thơ bị bỏ quên giữa dòng”, câu thơ nói về mối tình không thuận lợi giữa một người con gái và một người lính. Lời hát ca ngợi, sâu lắng, xuất hiện trong nỗi đau…

Gần Tết, mọi người tìm về gia đình “ai tìm về bên ai”, còn “ta tìm về bên em”… Họ không gặp nhau, “sao người con gái ấy nơi đâu, để lại bến sông xưa nhung nhớ một con đò”. Hoa đào của tình yêu và sự đoàn tụ vẫn nở đỏ giữa không gian chiều như đẩy mạnh những cảm xúc đặc biệt thành một ý tưởng thẩm mỹ đẹp, mặc dù buồn và đau đớn, nhưng không mất đi hy vọng. Đây không chỉ là niềm khao khát riêng của nhạc sĩ đa cảm mà còn là tâm trạng chung của những tâm hồn đồng điệu!

Truyền thuyết tình yêu đó sẽ sống mãi vì nó đã trở thành một phần của đất nước, đã hy sinh vì sự hòa bình của thiên nhiên và đất nước. Họ đã mang phù sa về đồng bằng mở rộng cho đất đai tiên tổ!

Đọc thêm