Bác Hồ và lựa chọn Việt Bắc làm căn cứ địa kháng Pháp

0
41
Rate this post

Mở đầu

Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan chính quyền thực dân phong kiến, thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và đưa nhân dân ta từ tư cách nô lệ trở thành người chủ thực sự của đất nước. Tuy nhiên, Pháp không quiesce và quyết tâm tái chiếm nước ta, buộc nhân dân phải mang vũ khí để bảo vệ độc lập và tự do đã vừa giành được. Những thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14/9 không được tôn trọng bởi Pháp. Đầu tháng 11/1946, sau một buổi làm việc của Hội đồng Chính phủ và hỏi ý kiến đồng chí Võ Nguyên Giáp về khả năng giữ Hà Nội, thành phố và nông thôn nếu xảy ra chiến tranh, Bác Hồ suy nghĩ và quyết định trở lại Tân Trào.

Việt Bắc – Lựa chọn an toàn khu

Công việc lựa chọn Việt Bắc làm an toàn khu (ATK) để tái khởi động hoạt động cách mạng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh suy nghĩ và chuẩn bị từ trước. Trong tình thế so sánh lực lượng của chúng ta và đối thủ, khá chênh lệch, chúng ta không thể đổ toàn bộ lực lượng vào một vài trận đấu để xác định thắng thua mà phải tổ chức một cuộc kháng chiến kéo dài.

Điều kiện cơ bản để duy trì cuộc kháng chiến kéo dài là bảo tồn và phát triển lực lượng, đồng thời xây dựng căn cứ địa vững chắc không chỉ thuận lợi về địa hình mà còn phải có sự mạnh mẽ của phong trào và cơ sở quần chúng. Với những suy tính khôn ngoan về tình hình, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Phạm Văn Đồng và một số cán bộ ở lại một thời gian để củng cố khu ATK. Cuối tháng 10/1946, sau khi trở về từ Pháp, Bác đã phái đồng chí Nguyễn Lương Bằng lên Việt Bắc để chỉ đạo chuẩn bị các công việc cho cuộc kháng chiến, đặc biệt là vận chuyển hàng chục nghìn tấn muối từ Nam Định lên vùng chiến sự. Tháng 11/1946, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập đội công tác đặc biệt do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách, nhiệm vụ của đội công tác này là nghiên cứu di chuyển và chọn địa điểm an toàn để đặt các cơ quan trung ương trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Sau đó, đội công tác của đồng chí Trần Đăng Ninh đã lên Việt Bắc để làm sạch vùng ATK trong nhiều đợt.

Việt Bắc – Căn cứ địa cách mạng

Việt Bắc là một vùng núi hiểm trở bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang. Trong đó, các huyện Sơn Dương, Chiêm Hóa, Na Hang, Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Chợ Đồn và Chợ Rã đã được chọn làm căn cứ địa ATK. Việt Bắc có đủ điều kiện thuận lợi về địa lý, lịch sử, kinh tế và dân số để xây dựng căn cứ địa cách mạng. Về mặt lịch sử, Việt Bắc là nguồn gốc của dòng tộc Hùng Vương, là nền tảng chống ngoại xâm của tổ tiên ta như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nùng Trí Cao. Việt Bắc cũng là căn cứ chống Pháp của các anh hùng ta như cụ Hoàng Hoa Thám. Đây còn là căn cứ địa của cuộc dân tộc giải phóng, chống Pháp và chống Nhật. Ngoài ra, đây còn là quê hương của quân đội giải phóng, anh cả của Vệ quốc quân.

Về địa thế, căn cứ địa Việt Bắc được xây dựng trên một vùng đất rộng lớn, chủ yếu là núi rừng. Rừng rậm màu mỡ, các dãy núi phủ đầy. Địa thế hiểm trở đã giúp bảo mật công việc xây dựng lực lượng cách mạng và trở thành địa bàn thuận lợi cho lực lượng vũ trang thực hiện chiến thuật du kích lâu dài, tiêu hao lực lượng địch và dễ dàng duy trì, tăng cường lực lượng. Ở phía bắc, Việt Bắc giáp Trung Quốc, có thể liên lạc với phong trào cộng sản quốc tế. Việt Bắc cũng là cửa ngõ của miền nam, vì vậy luôn có sự hỗ trợ từ miền nam. Từ Thái Nguyên đến Hà Nội không xa, khoảng 80-90 km. Khi có cơ hội thuận lợi, lực lượng vũ trang có thể tiến công nhanh chóng và đạt được chiến thắng. Nếu gặp khó khăn, chúng ta có thể rút quân kịp thời để bảo vệ lực lượng. Tóm lại, Việt Bắc có vị trí linh hoạt, theo Bác Hồ, là nơi “tiến có thể đánh, lui có thể giữ”.

Ủng hộ của nhân dân Việt Bắc

Nhân dân của các dân tộc ở Việt Bắc đã có tình yêu nước sâu sắc, đoàn kết và cần cù trong lao động. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, họ đã lắng nghe lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ, cầm cao lá cờ chiến đấu, và hiện nay lại có thể đóng góp tích cực vào cuộc kháng chiến. “Đồng bào Việt Bắc gồm có người Kinh, Thổ, Nùng, Thái,… phong tục tập quán có khác nhau, nhưng tình yêu nước và lòng căm hờn thực dân của họ như một. Tình yêu nước của nhân dân nhập vào cảnh hiểm trở của núi sông đã gắn kết thành một lực lượng vô địch”. Trong những lý do mà Bác lựa chọn Việt Bắc làm căn cứ địa cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, có lẽ lý do quan trọng nhất là sự ủng hộ từ lòng dân Việt Bắc. Đối với Bác, sống giữa nhân dân tức là được bảo vệ an toàn nhất.

Bác Hồ và cuộc kháng chiến ở Việt Bắc

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, do tình hình chiến sự diễn biến phức tạp, để đảm bảo an toàn, Bác đã thay đổi nhiều nơi ở. Nhưng dựa trên niềm tin mãnh liệt vào quần chúng, nơi Bác ở “trên có núi; dưới có sông; có đất ta trồng; có bãi ta vui; tiện đường sang Bộ tổng; thuận lối tới Trung ương; nhà thoáng, ráo, kín mát” và quyết không bao giờ xa đường thiếu trọng yếu “gần dân, không gần đường”. Theo Bác, “bất kỳ lúc nào, bất kỳ nơi đâu, ta phải tiếp xúc tốt với dân, phải làm cho dân yêu, dân tin”.

Với chỉ đạo nhanh chóng rút quân lên ATK của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đến đầu tháng 4/1947, việc di chuyển các cơ quan Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc đã hoàn thành. Ngoài ra, khoảng 40.000 tấn máy móc, thiết bị và nguyên liệu đã được sử dụng để xây dựng 57 cơ sở sản xuất quân giới phục vụ cuộc kháng chiến. Chúng ta cũng đã di chuyển các máy in báo, tiền, cơ sở vật chất của bệnh viện, trường học và đài phát thanh lên khu vực chiến sự an toàn. Bộ Tổng tham mưu đã phân chia các khu vực trong ATK cho các cơ quan Trung ương, Chính phủ, Chủ tịch phủ, Bộ Tổng chỉ huy và các tổ chức khác.

Kết thúc

Ngày 1/4/1947, Bác rời Phú Thọ và di chuyển đến làng Xảo, Hợp Thành, Sơn Dương (thuộc tỉnh Tuyên Quang), khởi đầu những năm tháng chỉ đạo cách mạng ở Thủ đô kháng chiến. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng về kháng chiến kiến quốc.

Trong suốt cuộc kháng chiến gian khổ, nhân dân Việt Bắc cùng với quân đội đã tận tụy bảo vệ căn cứ, dũng cảm chiến đấu với quân thù. Mỗi tên ngọn núi, con sông và làng xóm ở đây đều liên quan đến những sự kiện, thành tựu trong cuộc kháng chiến. “Việc thành công của cách mạng nhờ vào Việt Bắc, cuộc kháng chiến sẽ thắng lợi nhờ vào Việt Bắc”. Với lựa chọn Việt Bắc là căn cứ địa, cuộc kháng chiến chống Pháp đã xây dựng được một vị trí vững chắc. Điều này cũng là một trong những cơ sở quan trọng để Đảng thực hiện con đường “Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Nhờ đó, tiến trình kháng chiến đã thay đổi lực lượng giữa hai bên: chúng ta đã dựa trên núi rừng Việt Bắc để đánh mạnh, chiến thắng lớn và từng bước giành quyền chủ động, trong khi đối thủ ngày càng bị động và thất bại. Cuối cùng, cuộc kháng chiến đã kết thúc bằng trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.


Bài viết này đã được chỉnh sửa bởi Dnulib