Hướng dẫn học thủ ngữ khi tiếp xúc với người khiếm thính

0
74
Rate this post
Video bảng chữ cái cho người khiếm thính

Hướng dẫn sử dụng thủ ngữ cho việc giao tiếp với người khiếm thính

“Thủ ngữ” hay còn được gọi là “ngôn ngữ ký hiệu”, là hình thức giao tiếp bằng các biểu hiện chữ viết và số, thông qua bảng chữ cái và các ký tự đặc biệt. Người khiếm thính sử dụng thủ ngữ để diễn đạt các thông tin cụ thể như tên, tuổi và ngày tháng năm sinh.

Đôi khi, điều này có thể gây nhầm lẫn vì một câu như “Anh yêu em nhiều lắm” phải được diễn tả bằng 21 ký tự trên tay, điều này mất thời gian phải không nào? Vì vậy, một phần không thể thiếu là các cử chỉ và biểu hiện, đó là mô tả các đối tượng bằng tay. Ví dụ, để nói về một chiếc máy tính hoặc công việc văn phòng, bạn có thể để hai tay trước ngực và như đang gõ bàn phím, điều này sẽ giúp mọi người hiểu rõ không cần giải thích cho người khiếm thính.

Nếu bạn là người mới bắt đầu, khi nói tên của bạn, bạn phải sử dụng tay để mô phỏng các chữ cái để tạo nên tên của bạn. Tuy nhiên, sau một thời gian, cộng đồng người khiếm thính sẽ đặt cho bạn một biệt danh ngắn gọn (có thể gọi là “nickname”). Ví dụ, nếu bạn có một cái răng khểnh đáng yêu, người ta chỉ cần chạm môi vào vị trí của cái răng đó và đặt chữ cái đầu của tên bạn lên đó…

Rất mong các bạn sẽ hiểu và thông cảm với người khiếm thính, để thấy rằng chúng ta rất hạnh phúc và ngôn ngữ của chúng ta thật tuyệt vời. Đối với người khiếm thính, để giải thích sự khác biệt giữa những từ như giám đốc, hiệu trưởng, chủ nhiệm, lãnh đạo, chủ tịch, tổng thống,… là rất khó khăn vì họ không có đủ từ khác nhau để phân biệt, mà chỉ có cử chỉ để biểu lộ.

Khi họ nói chuyện với chúng ta, nếu chúng ta để ý và hiểu cách sử dụng ngôn ngữ thông thường, chúng ta sẽ thấy rằng đó giống như một người nói trống rỗng. Ví dụ, trong khi chúng ta sẽ hỏi “Bạn có khỏe không? Bạn tên là gì?”, họ chỉ nói “Khỏe không? Tên là gì?”, Hãy thông cảm cho họ, đó không phải là lời nói trống rỗng, mà là cách họ biểu thị và chúng ta cũng nên áp dụng cách đó khi nói chuyện với họ. Mong rằng chúng ta sẽ nói đúng và đẹp.

Số trong ngôn ngữ cử chỉ

Mình học ngôn ngữ cử chỉ Mỹ, sau đó mới học ngôn ngữ cử chỉ của Việt Nam, do các anh chị trong CLB Người Điếc Hà Nội dạy. Ở Việt Nam, chưa có sách giáo khoa chuẩn cho người khiếm thính, vì vậy bạn sẽ thấy một số sự khác biệt trong ngôn ngữ cử chỉ của từng vùng, nhưng không có gì quan trọng cả, vì tất cả người khiếm thính ở ba miền đều có thể hiểu nhau, kể cả những người không học hoặc không sinh hoạt tại một câu lạc bộ nào. Khi họ gặp nhau, họ có thể hiểu nhau rất nhanh chóng.

Điều này cũng dễ hiểu vì ngay cả các vùng miền bình thường cũng có ngôn ngữ địa phương riêng, đúng không các bạn?

Thủ ngữ – ngôn ngữ ký hiệu bằng tay

Ngôn ngữ ký hiệu, hay còn được gọi là thủ ngữ, là hình thức ngôn ngữ chủ yếu được người câm điếc sử dụng để truyền đạt thông tin qua các biểu hiện cử chỉ, điệu bộ và nét mặt thay vì lời nói.

Lịch sử

  • 384-322 TCN: Aristotle, triết gia vĩ đại của Hy Lạp, tuyên bố “Người điếc không thể giáo dục được. Nếu không thể nghe, con người không thể học được”.
  • Thế kỷ 16: Geronimo Cardano, nhà vật lý học người Padua, tuyên bố người điếc có thể học tập thông qua giao tiếp bằng ký hiệu.
  • Thế kỷ 17: Juan Pablo de Bonet xuất bản cuốn sách đầu tiên về ngôn ngữ ký hiệu, cùng với việc công bố bảng chữ cái năm 1620 dựa trên các ký hiệu được cộng đồng người điếc phát triển từ trước đó.
  • Thế kỷ 18:
    • 1755: Cha Charles-Michel de l’Épée (người Pháp và được coi là người sáng lập hệ thống ngôn ngữ ký hiệu Pháp) thành lập trường học miễn phí đầu tiên dành cho người điếc. Hệ thống ký hiệu tiếp tục được phát triển và được cộng đồng người điếc sử dụng. Hệ thống ngôn ngữ ký hiệu của Pháp được hoàn thiện trong giai đoạn này.
    • 1778: Tại Leipzig, Đức, Samuel Heinicke, trường công lập đầu tiên dành cho người điếc không chỉ sử dụng ngôn ngữ ký hiệu mà còn sử dụng phương pháp nói và đọc khẩu hình – tiên phong trong việc sử dụng tất cả các phương pháp giao tiếp tối ưu (bao gồm ngôn ngữ ký hiệu, cử chỉ, đánh vần bằng ký hiệu, đọc khẩu hình, nói, trợ thính, đọc, viết và vẽ).
  • Thế kỷ 19:
    • 1815: Thomas Hopkins Gallaudet đi nghiên cứu về phương pháp giáo dục cho người điếc ở châu Âu. Trở về Mỹ cùng với giáo viên ngôn ngữ ký hiệu, Gallaudet và Laurent Clerc mở trường công dành cho người điếc đầu tiên của Mỹ tại Hartford, Connecticut năm 1817.
  • Thế kỷ 20:
    • 1924: Tổ chức World Games đầu tiên dành cho người điếc. Bắt đầu phát triển Gestuno (ngôn ngữ ký hiệu chuẩn quốc tế).
    • 1951: Đại hội đầu tiên của Liên hiệp Người Điếc Thế giới (WFD) diễn ra tại Roma.
    • 1960: William Stokoe, người Mỹ, xuất bản cuốn sách ngôn ngữ học đầu tiên về ngôn ngữ ký hiệu Mỹ (American Sign Language – ASL).
    • 1979: Klima và Bellugi tiến hành nghiên cứu đầu tiên về ngôn ngữ ký hiệu Mỹ (ASL) trong ngữ pháp.
    • 1988: Quốc hội Cộng hòa Séc thông qua một đạo luật chính thức công nhận Ngôn ngữ Ký hiệu Séc là ngôn ngữ chính dành cho người điếc tại quốc gia này. Điều này bao gồm việc cung cấp dịch vụ phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu miễn phí 24/24 cho người điếc, quyền được sử dụng ngôn ngữ ký hiệu bản địa trong giáo dục cho trẻ em điếc và đào tạo cho phụ huynh của các em. Tuy nhiên, việc dịch ngôn ngữ ký hiệu trong trường trung học, đại học và tòa án vẫn chưa được quy định.

Từ những năm 2000, Việt Nam đã bắt đầu triển khai nỗ lực để hoàn thiện và hệ thống hoá Ngôn ngữ Ký hiệu Việt Nam. Các câu lạc bộ, nhóm dạy và sinh hoạt Ngôn ngữ Ký hiệu đã xuất hiện và phát triển. Một số tài liệu cụ thể đã được xuất bản như bộ 3 tập Ký hiệu cho người điếc Việt Nam, từ điển Ngôn ngữ Ký hiệu Việt Nam, v.v.

Đặc điểm

Giống như ngôn ngữ nói, ngôn ngữ ký hiệu của từng quốc gia, thậm chí từng vùng trong một quốc gia cũng rất khác nhau. Điều này là do mỗi quốc gia, vùng miền có lịch sử, văn hóa và tập quán riêng, dẫn đến sự khác biệt trong cách biểu thị các đối tượng. Ví dụ, để chỉ màu hồng, ở Hà Nội người ta chạm vào má (má hồng), trong khi ở Thành phố Hồ Chí Minh, họ chỉ vào môi (môi hồng). Sự khác biệt này cũng tồn tại trên quy mô quốc gia, tạo nên sự khác biệt về từ vựng và ngữ pháp của ngôn ngữ ký hiệu giữa các quốc gia.

Tuy nhiên, ngôn ngữ ký hiệu trên toàn thế giới vẫn có một số điểm tương đồng. Ví dụ, ký hiệu “uống nước” sẽ giống nhau trong mọi nơi, chỉ việc làm ra vẻ như đang cầm cốc uống nước. Ký hiệu “lái xe” cũng tương tự, chỉ cần giả bộ cầm vô lăng và quay quay. Mỗi người (dù bình thường hay khiếm thính) đều có 30% kiến thức về ngôn ngữ ký hiệu. Vì ngôn ngữ ký hiệu phát triển nhiều hơn trong cộng đồng người khiếm thính, người thuộc cộng đồng này của hai nước khác nhau có thể giao tiếp tốt hơn hai người bình thường mà không biết ngoại ngữ.

Hai đặc điểm quan trọng nhất của ngôn ngữ ký hiệu là tính giản lược và có điểm nhấn. Ví dụ, thay vì nói “Anh có khỏe không ạ?”, trong ngôn ngữ ký hiệu, chúng ta chỉ cần “KHỎE không?” để diễn tả. Do tính giản lược và điểm nhấn, cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ ký hiệu thường không thống nhất, và cùng một câu có thể được sắp xếp theo nhiều cách khác nhau (thường thì điểm nhấn được đặt ở đầu câu để tạo hiệu quả chú ý).

Ví dụ, thay vì nói “Hôm qua, tôi gặp lại người bạn thân ở công viên”, trong ngôn ngữ ký hiệu, chúng ta có thể diễn đạt là “Bạn thân GẶP ở công viên hôm qua”.

Ngôn ngữ ký hiệu và cuộc sống

Thực tế, ngôn ngữ ký hiệu chính là cuộc sống, vì nó được tạo ra từ cuộc sống. Dù có nhận thức hay không, chúng ta đều đã và đang sử dụng ngôn ngữ ký hiệu rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày. Khoa học đã chứng minh rằng chúng ta truyền tải ngôn ngữ 70% thông qua các biểu hiện không lời như cử chỉ, điệu bộ và nét mặt. Một cách đơn giản để nhận ra tầm quan trọng của ngôn ngữ không lời là hãy thử nói chuyện mà nhắm mắt và không cử động cơ thể. Chỉ sau 30 phút, bạn sẽ ngạc nhiên nhận thấy hiệu quả câu chuyện rất thấp. Chúng ta hoàn toàn mất phương hướng và khả năng phán đoán nếu không có các cử chỉ, điệu bộ và nét mặt của người đối thoại để hướng dẫn. Tương tự, nếu không sử dụng tay chân, khả năng truyền đạt thông tin cũng giảm đi đáng kể.

Bạn sẽ làm thế nào để diễn đạt từ “to lớn”? Có phải sử dụng hai tay đưa vào nhau tạo thành một vòng tròn lớn trong không gian? Vậy nếu ai đó giả vờ cầm một cái micro và đung đưa nhún nhảy trước miệng, bạn nghĩ đến động từ gì? Có phải là “hát” không? Và làm thế nào để biểu hiện hành động “gõ cửa”? Có phải giả bộ gõ vào một cánh cửa không có trong không gian trước mặt không? Còn để diễn tả động từ “ngủ” thì sao? Có phải áp tay lên má và nhắm mắt lại không?

Như vậy, ngôn ngữ ký hiệu trong cuộc sống của chúng ta đã trở nên phổ biến, và chúng ta có thể không nhận thức điều đó, nhưng nó vẫn tồn tại, phát triển và làm cho cuộc sống của chúng ta tiện lợi và thoải mái hơn. Nói cách khác, chính những người bình thường đã “phát minh” ra ngôn ngữ ký hiệu, và người khiếm thính đã làm công việc hóa và hệ thống hóa tất cả thành ngôn ngữ riêng của mình.

Vậy tại sao không học ngôn ngữ ký hiệu để nâng cao khả năng truyền tải thông tin của chúng ta lên hơn 70%?

Chuẩn hóa và phổ biến ngôn ngữ ký hiệu

Hiện nay tại Việt Nam, có nhiều phương ngữ ký hiệu khác nhau theo từng khu vực như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Đà Nẵng, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, v.v. Trong số đó, ba phương ngữ ký hiệu chính là Hà Nội, Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh. Một hệ thống ngôn ngữ ký hiệu chuẩn quốc gia cũng đang được xây dựng.

Việc học ngôn ngữ ký hiệu ở các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Nhật Bản rất thuận lợi vì tài liệu học phổ biến trên mạng. Hiện nay, việc học ngôn ngữ ký hiệu tại Việt Nam cũng thuận lợi hơn do đã có một số nhóm và câu lạc bộ đang giảng dạy (như Câu lạc bộ Ngôn ngữ ký hiệu Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh).

Bảng ký hiệu tay tham khảo:

Bảng ký hiệu tay

Được chỉnh sửa bởi dnulib.edu.vn