Những Địa Danh Đặc Biệt ở Phú Thọ
Ở ngày nay, Phú Thọ vẫn giữ lại nhiều địa danh mang tên tiếng Tày. Tại chân núi Hùng, có nhiều khu ruộng được gọi là “nà” theo ngôn ngữ Tày. Tại đây, có một xóm tên là xóm Bản Pheo. Bản Pheo là nơi tập trung cư trú của người Tày, tương tự như xóm của người Kinh. Xưa kia, xóm này trồng nhiều cây tre, và do đó, người Tày đã đặt tên là Bản Pheo. Người Kinh hiện nay gọi nó là xóm Tre. Trưởng tộc của tộc người Tày lớn trong thời kỳ vua Hùng thứ 18 là Ma Khê, người sinh sống tại chân núi Đọi Đèn, huyện Cẩm Khê. Ông Ma Khê đã lấy vợ từ Bản Pheo, gần núi Hùng như ngày nay. Ở bên cạnh núi Hùng có ngọn núi Lỏn. Sau này, người Kinh đã đổi tên ngọn núi đó thành núi Út. Cả Lỏn và Út đều có nghĩa là những ngọn núi nhỏ nhất trong hai nhóm ngôn ngữ Việt Mường và Tày Thái cổ. Ông Ma Khê đã chống lại người Tày của nước Âu Việt và được Hùng Vương phong làm Phụ Quốc, trở thành thầy Vua. Sau đó, ông cùng với Nguyễn Tuấn (Sơn Tinh), con rể của Vua Hùng, lên kế hoạch để chống giặc và bảo vệ đất nước. Khi Vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán và đổi tên nước thành Âu Lạc, cha con Ma Khê không hợp tác với triều đình mới. Họ trở về xây dựng trang ấp ở vùng thị xã Phú Thọ và Phù Ninh. Do đó, ở đây có các động của người Man được gọi là Động Hoa Khê (thị xã Phú Thọ) và Động Tiên Du (huyện Phù Ninh). Ở thị xã Phú Thọ hiện nay, vẫn còn dấu tích của thành Mè và chợ Mè. Mè và Mai là những từ gọi khác của chữ Ma. Người Tày ở Phú Thọ hiện nay có nơi gọi là họ Mè hoặc họ Mai. Bộ tộc này sau đó phân thành ba nhánh ở Phú Thọ, Tuần Quán Yên Bái và Tuyên Quang. Nhánh ở Phú Thọ là nhánh chính, và Ma Khê là tổ tiên của tộc người. Người Tày ở Phú Thọ đã trở thành người Kinh. Hiện nay, họ sống rải rác ở khắp các vùng trong tỉnh. Một số người vẫn giữ họ Ma như ông Ma Văn Thực, tộc trưởng ở Việt Trì, và có cô con gái là ca sỹ Ma Thị Bích Việt. Những người khác đã đổi sang họ Ma hoặc họ Mè.
Người Việt Mường và Người Tày Cổ
Người Việt Mường sống dọc theo sông Đà và xen kẽ với người Tày cổ ở hai bờ sông Thao và sông Lô. Người ta còn thấy nhiều dấu tích của người Việt Mường như các miếu Mường ở Thanh Ba và các địa danh còn được gọi là động.
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Mường và Tày Cổ
Trước đây, dân tộc Việt gồm hai nhóm Việt Mường và Tày cổ, theo cuộc di cư theo dòng sông và khai phá vùng Trung Châu, tạo thành vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tại đây, do tương tác văn hóa với người từ nơi khác và từ biển vào, họ đã trở thành người Kinh. Sau đó, do sự phát triển và sự chật hẹp đất đai, dân đông hoặc do có tội với làng nước, từng nhóm người Kinh lại đến một mình, làm cho họ phân tán ở vùng núi. Trong thời trung đại, người Kinh đã sống đông đúc ở Phú Thọ. Các khu định cư của họ là kẻ, hương, giáp và làng. Để phân biệt với các làng của người Kinh, triều đình quy định gọi các khu định cư của người bản xứ, người thiểu số là các Động Man. Ở Phú Thọ, còn thấy các động Lăng Xương, động Trung Nghĩa, động Trúc Khê, động Khuất Lão… Ở động nào có các họ Nguyễn, Đinh, Quách, Bạch, Hà, Phùng, Bùi, Lê, Cao, vv… là nơi người Mường từng sống. Ở đâu có họ Ma, Mai, Mè là nơi sinh sống của người Tày xưa.
Vị Trí Của Nước Văn Lang và Cuộc Chiến Tranh Với Người Âu Việt
Nước Văn Lang do các Vua Hùng của người Lạc Việt hoặc người Việt Mường cai trị. Một bộ tộc người Tày do Ma Khê làm trưởng tộc được hậu thuẫn để chống lại người Âu Việt do Thục Đế lãnh đạo từ phía Tây Bắc thường xâm lược. Các Vua Hùng đã phải lấy Kinh Đô làm Phong Châu Việt Trì để chống trị và chống lại người Âu Việt. Do sức mạnh của giặc ngày càng tăng, Vua Hùng buộc phải rút lui xa xây dựng Kinh thành ở Nghệ An để tập hợp lực lượng đánh giặc ra khỏi lãnh thổ của mình. Chính vì lí do này, chỉ từ những năm 60 của thế kỷ trước, dựa trên truyền thuyết dân gian, các nhà sử học mới tranh luận về địa điểm Kinh thành của Phong Châu, liệu nó có ở Nghệ Tĩnh, Việt Trì hay không. Kinh thành Phong Châu từng tồn tại ở Nghệ Tĩnh. Vì Vua Hùng đã giữ được thành Phong Châu, nên lãnh thổ của họ mới có thể yên vui. Địa giới của nước Văn Lang thời đó ở Tây Bắc bao gồm Phú Thọ, tỉnh Hòa Bình và các tỉnh miền Trung Châu, kéo dài đến miền Thanh Nghệ.
Sông Đà và Câu Chuyện Về Sơn Tinh, Thủy Tinh
Con sông Đà chảy từ Lai Châu, Điện Biên, Sơn La xuống Hòa Bình và Việt Trì. Đây là con sông chính mang người Âu Việt xuống để cướp của cải và nô lệ của người Lạc Việt. Con sông Đà vì vậy đã trở thành đại lưu của nhiều truyền thuyết về thời kỳ nhà nước cổ đại Việt Nam. Do vị trí quan trọng của nó, ở đây vẫn còn truyền lại từ thời xa xưa câu chuyện tình yêu giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo truyền thuyết, Âu Cơ sinh ra ở động Trung Nghĩa (xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy ngày nay). Lạc Long Quân từng đi qua đây và gặp Âu Cơ. Sau đó, ông đưa bà về Phong Châu và cưới bà. Bà sinh ra trăm người con trai. Năm mươi người con theo cha mình đến khai phá vùng biển, và năm mươi người con theo mẹ lên rừng, thuộc Văn Lang, huyện Hạ Hòa, gần Yên Bái, thuộc vùng đất của người Âu Việt. Một người con ở lại và lập ra nhà nước Văn Lang, với Kinh Đô là thành Phong Châu, Việt Trì.
Sự Đóng Góp Của Nguyễn Tuấn
Nguyễn Tuấn là con trai của ông Nguyễn Cao Hành và bà Đinh Thị Đen. Ông sinh ra ở động Long Xương, cũng thuộc huyện Thanh Thủy. Ông lấy vợ là Ngọc Hoa, con gái của Vua Hùng, là một tướng quân tài ba. Theo truyền thuyết, Nguyễn Tuấn có cha mẹ là người Việt Mường. Khi sinh ra, ông được nuôi dưỡng bởi bà Ma Thị Thần Nữ, người Tày. Nguyễn Tuấn học văn hóa của cả người Việt Mường và người Tày Thái cổ. Vì vậy, ông được người Việt sau này tôn thờ như tứ bất tử trong thần điện Việt Nam. Nguyễn Tuấn đã có công giúp đỡ vua cha nhường ngôi cho Thục Phán để tránh cho dân Việt phải chịu đau khổ và chiến tranh nội.
Tô Tem Giáo và Tôn Thờ Vật Tổ
Tô tem giáo là một tập quán còn tồn tại ở vùng Mường, đặc biệt là ở Phú Thọ. Tô tem giáo là tôn thờ tổ tiên. Lịch sử nhân loại đã trải qua giai đoạn tạp hôn, và khi nhận thức được rằng chúng ta là con cháu của cùng một bà mẹ, tổ chức xã hội đầu tiên của loài người ra đời. Tại giai đoạn này, con người chỉ biết có mẹ, chưa biết có cha. Dựa trên quan sát tự nhiên và kinh nghiệm, con người đã biết rằng mọi sinh vật đều cần hai yếu tố để sinh sản, đó là trời đất, sáng tối, mưa nắng… Tô tem giáo không chỉ để thỏa mãn bản năng giới tính, mà còn để tôn vinh sự đóng góp của công ơn sinh sản. Mỗi bộ tộc có một vật tổ riêng. Ngày nay, người Mường ở vùng Đất Tổ tôn thờ con cuốc là vật tổ của mình. Họ Đinh Công thờ con liếu điếu. Họ Cao thờ con Khỉ. Một họ Cao khác lại thờ con Chim Chào mào… Các vật tổ được vẽ thành tranh họ. Khi có người chết, tranh họ được đặt trên quan tài kèm theo bát cơm, quả trứng và cây đũa. Khi chôn lấp, tranh họ được đặt lên mộ. Người ta không giết vật tổ để ăn thịt. Khi vật tổ chết, chúng được chôn cất giống như con người. Các gia đình giàu có thường làm ma vật tổ tương tự như ma người. Hiện nay, khi con người đã biết rõ cha của mình là ai, tô tem giáo chỉ còn duy trì ở các tộc người thiểu số. Ở ngày nay, người Mường ở vùng Đất Tổ vẫn thờ cúng vật tổ và giải thích rằng vật tổ đã từng cứu giúp tổ tiên thoát khỏi hiểm họa. Khi kẻ thù xâm nhập, vật tổ đã bay lên từ bụi rậm để khiến kẻ thù không thấy người trốn tránh. Hoạt động tôn thờ vật tổ giữ lại cả tô tem giáo và thông báo cho đời sau biết rằng ông cha ta đã từng trải qua những cuộc chiến tranh đau khổ.
Kết Luận
Tổng kết lại qua tài liệu dân tộc học nghiên cứu cổ và văn hóa dân gian, ta sẽ hiểu rõ hơn về nguồn gốc của các dân tộc tại vùng Đất Tổ của cả nước.
Dnulib, cổng thông tin điện tử của Đại học Phú Thọ, cung cấp thông tin về văn hóa, lịch sử và đời sống của người dân Phú Thọ. Bạn có thể truy cập website Dnulib để tìm hiểu thêm thông tin chi tiết.