Năng lực hành vi là gì? Năng lực hành vi dân sự của cá nhân?

0
49
Rate this post

Khi tham gia vào các giao dịch dân sự, năng lực hành vi của các bên luôn là yếu tố quan trọng nhất. Năng lực hành vi đảm bảo rằng mỗi cá nhân có đủ khả năng xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ liên quan đến giao dịch. Hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu về khái niệm Năng lực hành vi là gì? và quy định của pháp luật về Năng lực hành vi dân sự của cá nhân.

Cơ sở pháp lý

Theo Bộ Luật Dân sự 2015, Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568.

1. Năng lực hành vi là gì?

Theo quy định tại Điều 19 của Bộ Luật Dân sự 2015, Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được định nghĩa như sau: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Điều này có nghĩa là mỗi cá nhân hoặc tổ chức có khả năng sử dụng hành vi của mình để xác lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý, đồng thời chịu trách nhiệm về những hành vi của mình. Năng lực hành vi của tổ chức được thể hiện cùng với năng lực pháp luật từ thời điểm có quyết định thành lập hoặc thừa nhận tổ chức đó từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Còn năng lực hành vi của cá nhân thì xuất hiện sau năng lực pháp luật, khi họ đạt tới độ tuổi nhất định.

2. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân:

2.1. Cá nhân có năng lực hành vi đầy đủ:

Theo quy định của pháp luật dân sự, cá nhân được coi là có năng lực hành vi đầy đủ khi đủ 18 tuổi trở lên và có khả năng nhận thức và thực hiện hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp cá nhân bị tuyên bố mất năng lực hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật, thì họ không được coi là có năng lực hành vi đầy đủ. Điều này có nghĩa là cá nhân từ 18 tuổi trở lên chịu trách nhiệm pháp lý về các hành vi vi phạm pháp luật mà họ gây ra. Họ chỉ mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi khi có quyết định của toà án về việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự.

2.2. Cá nhân có năng lực hành vi một phần:

Theo quy định của pháp luật, cá nhân có năng lực hành vi một phần hoặc còn gọi là không đầy đủ, là những người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật quy định. Theo Điều 21 của Bộ Luật dân sự 2015, người chưa thành niên được định nghĩa là người chưa đủ mười tám tuổi.

  • Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
  • Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
  • Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Như vậy, cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi được coi là có năng lực hành vi dân sự một phần. Họ có thể sử dụng hành vi của mình để xác lập quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia các giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Tuy pháp luật không quy định rõ ràng những giao dịch nào được coi là “phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày” và “phù hợp với lứa tuổi”, nhưng có thể hiểu rằng đó là những giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống mà không cần sự đồng ý trực tiếp của người đại diện.

2.3. Cá nhân không có năng lực hành vi:

Theo quy định của pháp luật, người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự vì ở độ tuổi này, việc nhận thức hành vi của một đứa trẻ là khó khăn. Mọi giao dịch của những người này đều do người đại diện xác lập và thực hiện. Họ chưa bao giờ có năng lực hành vi vì chưa đủ ý chí và lí trí để hiểu và chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

2.4. Cá nhân mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực hành vi dân sự:

Mất năng lực hành vi dân sự có nghĩa là năng lực hành vi của cá nhân tạm thời bị mất do các yếu tố như bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác khiến họ không thể nhận thức và kiểm soát được hành vi của mình. Theo Điều 22 của Bộ Luật Dân sự 2015, toà án có thể tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự dựa trên kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền, theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người đại diện của họ xác lập và thực hiện.

Ngoài ra, cá nhân được tuyên bố mất năng lực hành vi có quyền yêu cầu toà án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề này theo yêu cầu của cá nhân sẽ gặp phải khó khăn về tố tụng. Khi mất năng lực hành vi dân sự, cá nhân cũng mất năng lực tham gia vào tố tụng dân sự và không thể tự khởi kiện hoặc yêu cầu toà án, mà phải thông qua hành vi của người có năng lực hành vi tố tụng dân sự.

Đối với các trường hợp cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, năng lực hành vi của người thành niên bị hạn chế trên cơ sở những điều kiện và thủ tục được quy định tại Điều 24 của Bộ Luật dân sự 2015. Hạn chế năng lực hành vi của người thành niên khác với năng lực hành vi một phần của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi, mặc dù trên hình thức có vẻ giống nhau. Năng lực hành vi của người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi được công nhận là năng lực hành vi đầy đủ khi đạt độ tuổi nhất định, còn việc hạn chế năng lực hành vi phải thông qua toà án theo trình tự tố tụng dân sự và áp dụng đối với những người nghiện ma túy và các chất kích thích gây hậu quả phá tán tài sản của gia đình.

2.5. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:

Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi được ghi nhận tại Điều 23 của Bộ Luật Dân sự 2015. Điều này áp dụng cho những người có yếu tố về thể chất khiến họ không đủ khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của mình, nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự và có yêu cầu từ người này, người có quyền và lợi ích liên quan hoặc từ cơ quan, tổ chức liên quan gửi đến toà án.

Ngoài ra, để xác định người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, cần có kết luận giám định pháp y tâm thần theo quy định của pháp luật. Sau đó, toà án sẽ ra quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, chỉ định người giám hộ, xác định quyền và nghĩa vụ của người giám hộ.

Qua đây, chúng ta đã tìm hiểu về Năng lực hành vi là gì? Năng lực hành vi dân sự của cá nhân? cũng như các quy định pháp luật liên quan. Với các thông tin về năng lực hành vi, mỗi cá nhân hiểu rõ hơn về quyền và trách nhiệm của mình trong các giao dịch dân sự.

Edited by: Dnulib