Hoan hỷ địa Bồ tát – Siêng tu thiện căn xa lìa tất cả mọi sợ hãi

0
49
Rate this post

Con đường kiến đạo là Thập địa – mười phần Pháp thân. Sự chứng ngộ mỗi địa là sự chứng ngộ từng phần Pháp thân, là nguồn gốc và nền tảng của mọi phẩm chất và công hạnh giác ngộ. Khi đạt được các địa Bồ tát, hành giả sẽ thoát khỏi năm sợ hãi: sợ hãi bị làm hại, sợ hãi bị chết, sợ hãi bị tái sinh vào cõi giới thấp, sợ hãi phiền não và sợ hãi trong luân hồi. Theo cách này, những phẩm chất giác ngộ của thập địa Bồ tát ngày một tăng tiến.

Drukpa Việt Nam xin giới thiệu với Quý vị sự kết hợp và thành tựu tương ứng theo thứ lớp của Thập địa Bồ tát y cứ theo Phẩm Thập địa thứ hai mươi sáu, Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm.

Hoan hỷ địa (tâm ý hoan hỷ)

Ở quả vị này, Bồ tát đạt được sự an lạc thanh tịnh sau khi đã đoạn trừ kiến hoặc và đã chứng đắc Nhân không, Pháp không. Bồ tát trải qua con đường tu tập phần lớn thông qua thực hành về Bố thí Ba la mật để đưa tâm thoát khỏi sự sợ hãi, khiếp nhược ngay cả nếu phải hy sinh đầu mắt chân tay hay những bộ phận thân thể khác của mình vì lợi ích chúng sinh hữu tình.

Bấy giờ Ðức Thế Tôn ngự ở điện Ma Ni Bửu Tạng trong cung của Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương câu hội với chư đại Bồ Tát từ phương khác đến. Lúc đó Chư Phật ở mười phương cũng phóng quang như vậy, và cũng hiện thành những sự như vậy. Lại chiếu đến Phật và đại chúng ở thế giới Ta Bà này, cùng chiếu đến thân và tòa sư tử của Kim Cương Tạng Bồ Tát.

Image

Bấy giờ Kim Cương Tạng Bồ Tát, thừa thần lực của Phật, nhập Bồ Tát đại trí huệ quang minh tam muội. Ngài nhập tam muội này rồi, liền đó khắp mười phương quá ngoài mười ức Phật sát vi trần số thế giới, mỗi phương đều có mười ức Phật sát vi trần số Phật đồng hiệu Kim Cương Tạng, Phật hiện ra trước Ngài mà bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Kim Cương Tạng Bồ Tát có thể nhập Bồ Tát đại trí huệ quang minh tam muội này”.

Kim Cương Tạng Bồ Tát quan sát mười phương muốn cho đại chúng thêm lòng tin thanh tịnh nên nói rằng:

Chư Phật tử! Bồ Tát phát khởi những tâm như vậy bèn lấy đại bi làm trước, trí huệ tăng thượng, phương tiện khéo diệu, thâm tâm tối thượng là chỗ nhiếp lấy, Phật lực là chỗ giữ gìn, vô lượng trí khéo quan sát, sức phân biệt dũng mãnh, sức trí huệ vô ngại hiện tiền, tùy thuận tự nhiên trí, có thể thọ lãnh tất cả Phật pháp dùng trí huệ để giáo hóa, quảng đại như pháp giới, rốt ráo dường hư không suốt thuở vị lai.

Image

Này Phật tử! Bồ Tát mới bắt đầu phát tâm như vậy liền được vượt khỏi hạng phàm phu mà vào ngôi Bồ Tát, sinh vào nhà Như Lai. Không ai có thể nói chủng tộc của Ngài lỗi lầm. Ngài đã rời loài thế gian mà vào đạo xuất thế, được pháp Bồ Tát, ở chỗ Bồ Tát, nhập tam thế bình đẳng, ở trong chủng tính Như Lai quyết định sẽ thành Vô Thượng Giác. Bồ Tát an trụ những pháp như vậy gọi là trụ bậc “Bồ Tát Hoan Hỷ Ðịa”, vì đã tương ưng với chân như bất động.

Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bậc Hoan Hỷ Ðịa thời thành tựu nhiều hoan hỷ, nhiều tịnh tín, nhiều ái lạc, nhiều thích duyệt, nhiều hân khánh, nhiều dũng dước, nhiều dũng mãnh, nhiều bất đấu tránh, nhiều vô não hại, nhiều vô sân hận.

Image

Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bậc Hoan Hỷ Ðịa vì nhớ Chư Phật nên sinh vui mừng, vì nhớ Phật pháp nên sinh vui mừng, vì nhớ chư Bồ Tát nên sinh vui mừng, vì nhớ hạnh Bồ Tát nên sinh vui mừng, vì nhớ thanh tịnh Ba la mật nên sinh vui mừng, vì nhớ Bồ Tát địa thù thắng nên sinh vui mừng, vì nhớ Bồ Tát không hư hoại nên sinh vui mừng, vì nhớ Chư Phật giáo hóa chúng sinh nên sinh vui mừng, vì nhớ có thể làm lợi ích cho chúng sinh nên sinh vui mừng, vì nhớ vào trí phương tiện của Chư Phật nên sinh vui mừng.

Bồ Tát này lại tự nghĩ: Vì tôi đã chuyển và rời tất cả cảnh giới thế gian mà hoan hỷ, vì thân cận tất cả Phật mà hoan hỷ, vì lìa xa hạng phàm phu mà hoan hỷ, vì gần bậc trí huệ mà hoan hỷ, vì dứt hẳn tất cả ác thú mà hoan hỷ, vì làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sinh mà hoan hỷ, vì thấy tất cả Như Lai mà hoan hỷ, vì sinh vào cảnh giới Phật mà hoan hỷ, vì vào trong tính bình đẳng của tất cả Bồ Tát mà hoan hỷ, vì xa lìa tất cả những sự kinh sợ rùng mình mà hoan hỷ.

Tại sao lại được lìa khỏi hẳn những sự kinh sợ?

Image

Vì Bồ Tát này đã lìa ngã tưởng, thân mình còn không mến tiếc huống là của cải, vì thế nên không kinh sợ về sự không sống.

Vì Bồ Tát này không trông cầu người khác cúng dường mình, chỉ chuyên cấp thí tất cả chúng sinh nên không kinh sợ về sự tiếng xấu.

Vì Bồ Tát này đã lìa ngã kiến không có ngã tưởng nên không kinh sợ về sự chết.

Vì Bồ Tát này tự biết sau khi chết quyết định không rời Chư Phật Bồ Tát nên không kinh sợ về sự sa ác đạo.

Vì chí nguyện của Bồ Tát này, trong tất cả thế gian còn không ai bằng huống là hơn, nên không kinh sợ đối với oai đức của đại chúng.

Chư Phật tử! Bồ Tát này lấy đại bi làm trước, chí nguyện rộng lớn không có gì trở hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn mà được thành tựu.

Những thiện căn của bậc Bồ tát

Image

Những thiện căn đó là: lòng tin tăng thượng, nhiều lòng tin thanh tịnh, hiểu biết thanh tịnh, lòng quyết định, phát sinh lòng bi mẫn, thành tựu đức đại từ, không nhàm mỏi, lòng hổ thẹn trang nghiêm, thành tựu hạnh nhu hòa, kính thuận tôn trọng giáo pháp của Chư Phật, ngày đêm tu tập các căn lành không nhàm đủ, gần gũi thiện tri thức, luôn mến thích chính pháp, cầu đa văn không nhàm đủ, chính quan sát đúng với pháp đã được nghe, lòng không y tựa chấp trước, không tham muốn lợi danh cung kính, chẳng mong cầu tất cả vật dụng nuôi sống phát sinh tâm như thật không nhàm đủ, cầu bậc Nhất thiết trí, cầu Phật lực, vô úy, Phật pháp bất cộng, cầu các môn trợ đạo Ba la mật, lìa những dua dối, có thể thực hành đúng như lời nói, luôn gìn lời như thật, chẳng làm nhơ nhớp nhà Như Lai, chẳng bỏ giới Bồ Tát, sinh Nhất thiết trí, lòng vững như Sơn Vương bất động, chẳng bỏ tất cả sự thế gian mà thành tựu tất cả đạo xuất thế, tu tập pháp trợ đạo Vô thượng Bồ đề không mỏi nhàm, thường cầu đạo Vô thượng.

Chư Phật tử! Bồ Tát thành tựu pháp tu tập thanh tịnh tâm địa như vậy thời gọi là an trụ bậc “Bồ Tát Hoan Hỷ Ðịa”.

(Còn tiếp)

(Lược trích: Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh – Phẩm thứ Hai mươi sáu
Hán Dịch: Ðại Sư Thật Xoa Nan Ðà
Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh)

Được chỉnh sửa bởi Dnulib